Thứ Ba, 4 tháng 4, 2017

SÁCH: NHỮNG LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT

Biên soạn: Diệu Pháp Sudhamma.


MỤC LỤC
LỜI TỰA  ………………………………………........ 
11
PHẦN I
CHƯƠNG I. BẬC CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC
Phẩm Tính của Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác  ...........
15
Bốn Điều Vi Diệu   ....................................................
26
Kinh Hatthaka   .........................................................
29
Kinh anikā (Abhibhū)   ........................................
32
Kinh Sukhumala  .......................................................
36
Năm Sự Kiện Lớn Vào Ngày RằmThángTư   ...........
45
Trích Lược Một Số Bài Kinh  .....................................
52

CHƯƠNG II. BẢN CHẤT PHÙ DU, TẠM BỢ
VÀ HIỂM NGUY
Kinh Aguttara Nikāya I.333-347
57
Lời Dạy của Araka
64
Bài Kinh ĐầuTiên về Hai Vị Bà La Môn Già   .......
69
Bài KinhThứ Hai về Hai Vị Bà La Môn Già  .............
71
Bài Kinh về Những Giọt Nước Mắt   ........................
73
Bài Kinh về Những Giọt Máu  ...................................
75
Bài Kinh về Mũi Tên   ................................................
78
 

CHƯƠNG III.  HẠNH PHÚC THẾ TỤC
                          VÀ XUẤT GIA
   Bài Kinh về Người Chăn Gia Súc  ............................
81
Bài Giảng choThiện Nam Potaliya   ........................
91

CHƯƠNG IV. NGHIỆP (KAMMA)
KinhHoàngHậuMallikā   ..........................................
115
KinhTiểuNghiệp   .....................................................
122
KinhCẩuĐạoSĩ   .......................................................
130
ĐạiKinhVềNghiệpQuả   ..........................................
132
BàiKinhThứNhấtvềCácNguyênNhân    ................
136
BàiKinhThứ Hai vềCácNguyênNhân    ..................
139
BàiKinhThứNhấtvềCácKiếpSinhTồn    ...............
143
BàiKinhThứ Hai vềCácKiếpSinhTồn    .................
146

CHƯƠNG V. CÁC CẢNH GIỚI TÁI SINH
   31 Cảnh Giới Tái Sinh    ..............................................
153
CõiPhạmThiên    .......................................................
156
CõiChưThiên    ..........................................................
157
CõiĐịaNgục    ...........................................................
159
KinhTứĐạiThiênVương   ......................................
161
 


CHƯƠNG VI. BỐ THÍ – HỒI HƯỚNG
KinhvềThứcĂn   ...................................................
163
BốThíĐúngThời   .................................................
165
NgườiTríBốThí Ra Sao   .......................................
166
KinhCôngChúaSumanā   ......................................
169
PhướcBáuBốThítrongHiệnTại    .........................
173
Người Cho vàNgườiNhận   ....................................
175
PhânLoạiBốThí ....................................................
177
NgôiNhàBốcCháy   ...............................................
183
   HỒI HƯỚNG PHƯỚC ĐẾN NGƯỜI ĐÃ MẤT
TríchĐoạnKinhCâyMía   ..................................
185
TríchKinhAmbasakkharapeta   ..........................
186
TríchKinhTirokuṭṭa   .......................................... 
187
KinhJānussoṇi   ...................................................
188
PHẦN II
CHƯƠNG VII. HIỂU BIẾT ĐÚNG ĐẮN
Sundarika Bhāradvāja   .......................................... 
199
KinhMềnBằngTóc   .............................................. 
202
KinhChanna   ........................................................ 
204
   Vipallāsa - Điên Đảo   ............................................. 
208
   Bài Kinh về Mảnh Vải   ........................................... 
213
 
 

CHƯƠNG VIII. CẢM THỌ, THAM ÁI
   Phong Đại Kinh   ....................................................
229
   Ngôi Nhà Trọ   ........................................................
231
KinhVôThường    ..................................................
232
KinhSivaka   ..........................................................
234
KinhVisākhāNattā   ..............................................
236
KinhTrước Kia   .....................................................
240
BàiKinhThứ Nhấtvề ThamÁi   .............................
242
BàiKinhThứ Hai về ThamÁi   ...............................
243
KinhDụcVọng   .....................................................
244
KinhRāgassaAbhiññāya   ......................................
249
CHƯƠNG IX. TỨ ĐẠI, NGŨ UẨN, LỤC CĂN,
18 YẾU TỐ và VÔ NGÃ
KinhRắnĐộc    .....................................................
251
KinhChấpThủUpādāna    ....................................
268
BàiGiảngVàoĐêmRằm    .....................................
278
KinhẨnDụvề Con Rắn    ......................................
300
KinhvềCácYếuTố    ............................................
336
KinhHāliddikāni    .................................................
359
BảnĐồ ThânTâm    ................................................
363
 
 
 


CHƯƠNG X. THIỀN ĐỊNH, MINH SÁT
và TINH TẤN
SựKhácBiệtgiữaThiềnĐịnhvà Minh Sát   ..............
367
ThiềnĐịnh (Samatha)   ..............................................
368
TâmTừ Mettā   ...........................................................
370
Thiền Minh Sát (Vipassanā)   .....................................
374
ChánhNiệm   .............................................................
377
ThánhNhânvàNhững Ô NhiễmĐãLoạiTrừ   .........
380
KinhVijjābhāgiya   ....................................................
383
KinhYuganaddhaPaipadā   .....................................
384
KinhTinhTấn   ..........................................................
387
KinhThứcTỉnh   ........................................................
390
TrưởngLãoSirimanda Thera   ..................................
391

NHỮNG DANH TỪ PHẬT PHÁP .............................
393


 
 
-         o0o-
 
.
 




. 
LỜI TỰA
Trải qua bốna tăng kỳ và 100,000 đại kiếp trái đất, Đức Phật Thích Ca đã không ngừng vun bồi ba la mật để có thể chỉ ra con đường cho những ai mưu cầu hạnh phúc. Phật pháp, khi được hiểu đúng đắn và áp dụng hợp lý vào đời sống, sẽ đem đến nhiều lợi lạc cho nhân loại.
Suốt 45 năm rong ruổicác no đường, đức độ, sự tận tụy hy sinh và trí tuệ củaĐức Phật làm rung động bao nhiêu trái tim.Giáo pháp mà Ngài khéo giảng đã, đang và vẫn tiếp tục đưa bao người lầm lạc về no chánh, giúp người thoát vòng sinh tử, trở nên thánh thiện và cao thượng.
Chúng ta có thể làm nhiều điều thiện lành và hưởng được hạnh phúc trần gian ở cõi người hay chư thiên. Nhưng cao hơn hạnh phúc trần gian là loạihạnh phúc có được cái tâm tĩnh lặng (do có sự định tâm). Và cao hơn hạnh phúc tĩnh lặng là loại hạnh phúc giải thoát (do hành thiền Minh Sát). Vì thiền Minh Sát (hay Tứ Niệm Xứ) là cách thức duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt đau khổ, khóc than kinh nghiệm hạnh phúc giải thoát cao thượng,Đức Phật luôn hướng người nghe đến việc hànhthiền trong khi giảng pháp. Ngài nói đến Bố thí-Giữ giới-Hành thiền hay Giới-Định-Tuệ, và hướng người nghe đến giáo pháp vi diệu thâm sâu về vô ngã, một loại trí tuệ của các bậc Thánh nhân. Do vậy, trong quyển sách này, một số bài kinh đượcchọn lựa theo chủ đề, sắp xếp từ căn bản lên cao dần(cókèm theo chúgiảivàphụchú giải)thíchhợpchoviệctựhọc, nhằm giúp Phậttử hiểu rõ hơn lời Phật dạy.
Phần I của quyển sách giới thiệu đến độc giả những kiến thức Phật pháp căn bản liên quan đến đức tin đúng đắn về Tam Bảo, bố thí, chánh mạng, hồi hướng phước báu và luật nhân quả. Trong phần II, các thuật ngữ như “tứ đại”, “ngũ uẩn”, “ngũ uẩn thủ”, sáu nội căn”, “sáu ngoại cảnh”, “chánh niệm”, “vô ngã”… liên quan đến thiền Minh Sát được giới thiệu và giải thích ngắn gọn, nhằm giúp Phật tử dễ dàng lĩnh hội ý nghĩa của các bài giảng trong các khóa thiền Minh Sát.
“Như Lai chỉ là người chỉ đường”, bậc trí tuệ bậc nhất trên thế gianđã nói như thế trong kinh Ganakamoggallana Sutta (Majjhima Nikāya 107). Vậy chúng ta không thể ngồi đây cầu xin ai hạnh phúc. Chúng ta phải tự đi, đi theo con đường Ngài đã chỉ, con đường mà vô số chưPhật và các bậc Thánh nhân đã đi qua. Và chắc chắn chúng ta sẽ an vui khi khởi hành, an vui trên suốt con đường, cho đến khi tự mình chiêm nghiệm chân lý cao thượng.
Trong bối cảnh Phật tử gần xa tìm cầu hạnh phúc và khát khao giáo pháp, quyển sách nhỏ này là một sự đóng góp khiêm tốn vào đại cuộc xây đắp, vun vén những niềm vui và an bình cùng tất cả. Vì là quyển sách biên soạn đầu tay, Diệu Pháp xin chân thành ghi nhận mọi ý kiến đóng góp của quý độc giả, gửivềđịachỉ: dieuphap02@gmail.com, nhằm làm cho quyển sách được hoàn hảo hơn. 
DiệuPháp(Sudhammā)
 
 
♦  CHƯƠNG I  ♦ 
 
BẬC CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC_____________________________________________________________________________________________________
 
PHẨM TÍNH BẬC CHÁNH ĐẲNGCHÁNH GIÁC
 
Dù rộng lớn đến đâu, biển cũng bị giới hạn bởi đáy biển mặt biển và những ngọn núi Cakkavala vây quanh. Nhưng ba la mật Bố thí (dāna pāramī) mà Bồ Tát (vị Phật tương lai) vun bồi chẳng có giới hạn. Tài sản quý báu, những bộ phận cơ thể, thậm chí đến mạng sống Bồ Tát đã cho đi trong vô lượng kiếp, thật chẳng thể nghĩ bàn. Bồ Tát cũng đã vun bồi ba la mật về giới hạnh, tinh tấn… (sīla pāramī, viriya pāramī...) cao dày như thế ấy.
Là vua ở tuổi 16, Bồ Tát đãhàng ngày bố thí thực phẩm với 600.000 đồng tiền. Ngài tặng con voi trắng có khả năng làm mưa cho xứ Setuttarā đang bị hạn hán,mặc dù dân trong nước kịch liệt phản đối. Việc này khiến Ngài bị đày đến Vankagiri.Và tại nơi này, vua đã tặng con trai và con gái của mình cho vị bà la môn già Jujaka, người muốn dùng hai đứa trẻ này làm nô lệ. Bồ Tát cũng cho vua Đế Thích vợ của mình. (Đế Thích hóa làm vị bà la môn và hỏi xin vợ của Bồ Tát để thử lòng).Đó là kiếp sống của Bồ Tát trước khi tái sinh vào cõi trời Đâu Xuất (Tusita), chờ đợi tái sinh kiếp cuối cùng ở cõi người và trở thành Phật.
Vào những trưa hègay gắt, người ta bơi lội đùa giỡn trong lòng hồ sâu. Khi thỏa thích lặn ngụp trong nước mát, người này không để ý đến cái nóng t bỏng từ trời cao. Cũng thế ấy, với lòng đại bi không thể nghĩ bàn, vị Phật tương lai lặn sâu vào biển cả ba la mật để mưu cầu hạnh phúc cho kẻ khác. Đầy ắp lòng bi mẫn thương xót chúng sinh, Bồ Tát không cảm thấy đau đớn khi bị cắt tay,cắt chân bởi những kẻ tàn bạo.
Vị Phật tương lai khởi lòng đại bi, xót thương chúng sinh khi chứng kiến họ bị hành hạ bởi sinh - già - bệnh - chết, đau khổ tìm kiếm miếng ăn, thương tích và tật nguyền, đau khổ vì bị giết chóc, tù đày đau khổ trong bốn cõi khổ. Với lòng bi mẫn, Bồ Tát sẵn sàng chịu đựng những hành hạ tàn bạo nhất (bị cưa tay, chặt chân, cắt tai...) do những kẻ ngu dốt gây ra. Lòng Ngài vẫn chan chứa tình yêu thương đối với những kẻ ấy:
Vì tạo ra những tội ác này, nên hậu quả nghiêm trọng đang chờ đợi họ. Chỉ với sức chịu đựng và lòng bi mẫn, ta mới có thể cứu họ. Nếu ta hãm hại những kẻ bạo tàn, ta cũng bạo tàn chẳng khác chi họ. Vậy ta có thể làm gì để giải thoát chính mình và cả họ ra khỏi vòng sinh tử? Ta sẽ chịu đựng, nhận lấy những hành động tàn ác sai lầm này, rồi với lòng từ và tâm bi làm phương tiện dẫn đường, ta sẽ vun bồi ba la mật và thành tựu tuệ Toàn Giác của vị Phật Toàn Giác. Chỉ khi thành Phật, ta mới có thể cứu độ chúng sinh khỏi những đau khổ.
Trong Buddhapadana thuộc Apadana, người chưa là Bồ Tát và có ý nguyện thành Phật phát nguyện thành Phật trong tâm trước sự chứng giám của vô số vị Phật trong quá khứ. Nguyện ước thành Phật, người này vun bồi vô số phước báu trong vô lượng kiếp. Đến khi hội đủ tám yếu tố để trở thành Bồ Tát[1] (như đạo sĩ Sumedha), người này phát nguyện trước mặt vị Phật trong hiện tại:
Với những phước báu mà con đã tích lũy vun bồi, con sẵnsàng hy sinh cả tính mạngcủa mình để trở thành vịPhật Chánh Đẳng Chánh Giác. Nguyện cho con sẽ có được tuệ Toàn Giác của chư Phật Toàn Giác (Chánh Đẳng Chánh Giác) để cứu độ chúng sinh.
Đến đây, th nguyện thành Phật của người này viên mãn. Người này được Đức Phật hiện tại thọ ký trở thành vị Phật tương lai và từ đây, vị này chính thức trở thành Bồ Tát.[2]
Theo Nidanakatha thuộc chú giải CariyaPitaka, khi chính thức thành Bồ Tát, người này liên tục vun bồi ba la mật Hy sinh –Giới hạnh (pāramī-cāga-cariya) để thành tựu tuệ A La Hánđạo (Arahantamaggañāa) và tuệ Toàn Giác (Sabbaññutañāa).  VịPhật tương lai chỉ có thể giác ngộ sau khi vun bồi ba la mật (pāramī)[3], bố thí bộ phận trong thân thể hay thân mạng cho người khác (cāga) và trau dồi giới hạnh (cariya).[4]
 
Khó có Đức Phật ra đời trên thế gian
Một thuở nọ, khi đến thành Vương xá (Rājagāha), lần đầu tiênông Cấp Cô Độc (Ānathapinṇḍika)được nghe danh từ “Đức Phật” từ người em r, ông thốt lên: Ghoso' pi kho eso gahapati dullabho lokasmim yadidam 'buddho buddho' iti.(Này em, hiếm khichúng sinh trên thế gian này được nghe danh từ “Đức Phật”).
Khi Đức Phật trú tại tỉnh Apana thuộc xứ Anguttaripa, vị bà la môn trưởng (tên Sela) được nghe danh từ “Đức Phật” từ đạo sĩ Keniya. Ông thốt lên: “Này bạn, hiếm khi chúng sinh trên thế gian này được nghe danh từ Đức Phật!”.
Hiếm khi chúng sinh được nghe danh từ “Đức Phật” và hiếm hoi hơn nữa là sự ra đời của Đức Phật trên thế gian này. Chỉ trong một khoảng thời gian nhất định ngắn ngủi, Ngài ra đời ở một thế giới[5] nào đó. Có những thế giới chư Phật chẳng bao giờ xuất hiện và chúng sinh nơi đó khôngbao giờ gặp được Ngài. Trong vòng luân hồi vô tận, sự ra đời của Ngài trên thế gian ví như ánh chớp xuất hiện trên bầu trời rồi vụt tắt.
 
Trí tuệ siêu việt của chư Phật
Theo kinh SīhanādaSutta trong Dasaka-Nipāta thuộc Agutara Nikāya, Đức Phật có 10 tuệ (Dasabala ñāa):
1. Thāna-atthāna ñāa: Trí tuệ hiểu biết điều gì có thể xảy ra và không thể xảy ra (như tiến trình thụ thai, mà mãi đến khi khoa học tiến bộ mới khám phá ra…).
2. Kammasamādānavipāka ñāa: Trí tuệ hiểu biết quả sinh ra do các nghiệp lực tạo ra trong quá khứ, hiện tạivà tương lai.
3. Sabbatthagāminī patipadā ñāa: Trí tuệ hiểu biết các cảnh giới, danh sắc, đặc tính vô thường, khổ, vô ngã và con đường đưa đến giải thoát.[6]
4. Anekadhātu nānādhātu loka ñāa: Trí tuệ hiểu biết những yếu tố (18 yếu tố...) khác nhau trong thế giới.
5. Nānādhimuttikatā ñāa: Trí tuệ hiểu biết sự hướng tâm (manasikāra) của chúng sinh.
6. Indriya paropariyatta ñāa: Trí tuệ hiểu biết căn cơ cao thấp của chúng sinh.[7]
7. Jhānādi sakilesa vodānavutthāna ñāa: Trí tuệ hiểu biết các tầng thiền định, sự định tâm (jhāna, samādhi, samapatti) và tâm thoát khỏi ô nhiễm (vimukkha) do chứng đắc các tầng thiền Sắc giới,Vô Sắc giới hoặc do chứng đắc Đạo quả.
8. Pubbenivāsa ñāa: Trí tuệ nhớ lại vô số kiếp trong quá khứ (túc mạng minh)
9. Dibbacakkhu ñāa: Trí tuệ hiểu biết bằng thiên nhãn thông chúng sinh ra đi và tái sinh theo nghiệp của họ.[8]
10. Āsavakkhaya ñāa: Trí tuệ hiểu biết sự tận diệt mọi phiền não (Arahanta maggana ñāa).
 
Khả năng làmcho mọi chúng sinh nghe được lời giảng của Ngài
Khi Ngài giảng dạy cho riêng ai, chỉ có người ấy nghe được lời Ngài giảng. Khi Ngài muốn giảng cho nhiều người, dù ở thế giới nào thật xa xôi, các chúng sinh ấy đều có thể nghe được lời Ngài đang giảng. Trong khi ngài Xá Lợi Phất phải dụng thần thông để nhiều người có thể nghe được bài kinh Samacitta Sutta mà Đại đức giảng, Đức Phật không cần phải làm như vậy.
Đức Phật chỉ nghỉ hai giờ mỗi đêm
Đức Phật chỉ tắm sau khi hoàn tất bổn phận cần làm trong ngày. Tối đến, trong canh đầu (6:00–10:00), chư tăng tềtựu đảnh lễ Ngài. Sau đó, Ngài giảng Pháp và giải đáp những thắc mắc của chư tăng. Vào canh hai (10:00 tối – 2:00 sáng), Ngài giảng dạy cho chư thiên và Phạm thiên đến từ 10.000 thế giớiđể nghe Pháp và thỉnh Ngài giải đáp những thắc mắc. Những bài kinh như MagalaSutta hay ParabhavaSutta được giảng vào canh hai. Ngài chia canh ba ra làm ba, thời gian đầu (2:00 – 3:00 sáng), Ngài đi kinh hành tới lui để thư giãn thân thể. Sau đó (3:00 – 5:00 sáng), Ngài vào hương phòng, nằm nghiêng người sang bên phải nghỉ ngơi trong chánh niệm và nhập đại định ri tâm từ đến các chúng sinh. Từ5:00 – 6:00sáng, Ngài ngồi xếp bằng, dùng Thiên nhãn quán xét thế gian xem aicó đủ ba la mật, có khả năng đắc đạo quả để Ngài tế độ.
 
 
 
GIẢI THÍCH:
 
Sự khác biệt giữa Bồ Tát (Bodhisatta) và Phật (Buddha):
 
Bồ Tát
Đức Phật
-  ChưathànhPhật
-  Đang vun bồi Ba La Mật
-  Còn ô nhiễm trong tâm
-  Còn tái sinh
-  Đã thành Phật
-  Đã vun bồi Ba La Mật đến mức hoàn hảo
-  Chấm dứt ô nhiễm trong tâm
-  Không còn tái sinh

 
Ba loại Bồ Tát
1.   Trí Tuệ (Paññādhika)
Với yếu tố trí tuệ vượt trội, vị Bồ Tát, người sẽ trở thànhĐức Phật Trí Tuệ tương lai, cần vun bồi ba la mật trong bốn a tăng kỳ kiếp (asankheyya) và 100.000 đại kiếp trái đất (kappa). Đức Phật Thích Ca (Gotama Buddha) thuộc vào nhóm này.
2.   Đức Tin (Saddhādhika)
Với yếu tố đức tin vượt trội, vị Bồ Tát, người sẽ trở thànhĐức Phật Đức Tin tương lai, cần vun bồi ba la mật trong tám a tăng kỳ kiếp và 100.000 đại kiếp trái đất. 
3.   Tinh Tấn (Viriyādhika)
Với yếu tố tinh tấn vượt trội, vị Bồ Tát, người sẽ trở thànhĐức Phật Tinh Tấn tương lai,cần vun bồi ba la mật trong 16 a tăng kỳ kiếp và 100.000 đại kiếp trái đất.
Chư Phật Toàn Giác có được tuệ toàn giác hiểu biết mọi thứ(sabbaññuttañāa).
Phật – Pháp – Tăng
·      “Buddha”: là người biết tất cả, có được tuệ hiểu biết mọi thứ (sabbaññuttañāa), là bậc A La Hán hoàn toàn thanh lọc mọi ô nhiễm trong tâm, không còn sinh tử nữa. Do vậy:
Ngài được gọi là:
Iti pi so Bhagavā:
1.   Bậc A La Hán
1.   Araha
2.   Đấng Chánh Biến Tri do Ngài tự ngộ
2.   Sammāsambuddho
3.   Bậccó trí tuệvà phẩmhạnhhoànhảo
3.   Vijjācaraasampanno
4.   Bậcnóilờichânchánh, đi đếnnơithanh tịnh
4.   Sugato
5.   Bậc thông suốt tam giới
5.   Lokavidū
6.   Bậccó đứchạnhkhôngaisánhbằng, có khảnăngtế độngườihữuduyêncầntế đ
6.   AnuttaroPurisadammasārathi
7.   BậcThầycủanhânloạivà chư thiên
7.   Satthādevamanussāna
8.   ĐứcPhật, bậc đã giácngộ
8.   Buddho
9.   Đức Thế Tôn
9.   Bhagavāti.

·      “Dhamma”: là giáo pháp mà Đức Phật giảng dạy (rất vi diệu, thâm sâu), là những gì có thật, đem đến lợi lạc cho chúng sinh, được rút ra từ những kinh nghiệm tu tập và trí tuệ của Ngài. (Đức Phật nói những điều Ngài làm và làm những điều Ngài nói).Giáo pháp mà Ngài giảng dạy bao gồm trong ba tạng kinh, giúp chúng sinh sống thiện lành, gặt hái hạnh phúc trần gian và siêu thế gian (Niết Bàn).
 
·      “Saṅgha”: là các đệ tử của Đức Phật bao gồm tỳ khưu (bhikkhu) và tỳ khưu ni (bhikkhuni).Saṅgha gồm hai loại: Thánh (ariya) và phàm (puthujjana). Thánh tăng là người đã đạt được Thánh đạo, Thánh quả và kinh nghiệm Niết Bàn. Phàm tăng là người vẫn còn tu tập để đạt đạo quả. Chư tăng rất đáng tôn kính, là phước điền của chúng sinh.
 
 
Chú thích:Kappa:“Này các tỳ khưu, một đại kiếp (kappa) kéo dài lâu, lâu lắm. Ta chẳng thể tính được bằng năm, trăm năm, ngàn năm hay trăm ngàn năm” (Aguttara Nikāya IV).
 
“Này chư tỳ khưu, ví như có ngọn núi dài một yojana, rộng một yojana, cao một yojana, cứng đặc. Mỗi 100 năm, có một người dùng tấm vải xát vào ngọn núi này một lần. Cho đến khi ngọn núi này mòn, một đại kiếp vẫn chưa kết thúc. Hay ví như có một khu đất bao quanh bằng vách sắt dài một yojana, rộng một yojana, cao một yojana, chứa đầy ắp hạt mù tạt. Nếu mỗi 100 năm, một hạt mù tạt (mustard) được lấy ra, thì đến khi không còn hạt nào trong đó, một đại kiếp vẫn chưa kết thúc” (Sayutta Nikāya II).
 
 
 
 
 
BỐN ĐIỀU VI DIỆU
(Dutiya Acchariya Sutta, Aguttara Nikāya IV.128)
 
Nơi chư Phật, là vị A La Hánđã hoàn toàn giác ngộ(Đấng Toàn Giác)., có bốn điều vi diệu. Bốn điều ấy là gì?
Người đời thường tìm vui trong tham ái[9], thỏa thích trong tham ái và thụ hưởng, đam mê tham ái. Nhưng khi giáo pháp về sự xa lìa, buông bỏ tham ái[10]được Như Lai tuyên giảng, sẽ có người có tai muốn nghe, chăm chú lắng nghe và rồi tâm thức hướng đến, kinh nghiệm loại trí tuệ sau cùng[11]. Đây là điều vi diệu đầu tiên có nơi chư Phật, là một bậc A La Hán đã hoàn toàn giác ngộ.
Người đời thường kiêu căng, tự đắc, thỏa thích trong kiêu căng, tự đắc và vui sướng vì được thỏa mãn tính kiêu căng, tự đắc của mình. Nhưng khi giáo pháp về sự xa lìa, buông bỏ tính kiêu căng được Như Lai tuyên giảng, sẽ có người có tai muốn nghe, chăm chú lắng nghevà rồi tâm thức
hướng đến, kinh nghiệm loại trí tuệ sau cùng. Đây làđiều vi diệu thứ hai có nơi chư Phật, là một bậc A La Hánđã hoàn toàn giác ngộ.
Người đời thường thỏa thích suy nghĩ miên man, tìm vui trong vọng tưởng và vui sướng trong miên man vọng tưởng[12]. Nhưng khi Như Lai tuyên giảng Pháp tĩnh lặng, sẽ có người có tai muốn nghe, chăm chú lắng nghe và rồi tâm thức hướng đến, kinh nghiệm loại trí tuệ sau cùng. Đây là điềuvi diệu thứ ba có được nơi chư Phật, là một bậc A La Hán đãhoàn toàn giác ngộ.
Người đời thường sống trong vô minh, bị vô minh làm mù lòa và bị vô minh trói buộc. Nhưng khi Như Lai tuyên giảng giáo pháp loại trừ vô minh, sẽ có người có tai muốn nghe, chăm chú lắng nghe và rồi tâm thức hướng đến, kinh nghiệm loại trí tuệ sau cùng. Đây là điều vi diệu thứ có được nơi chư Phật, là một bậc A La Hán đã hoàn toàn giác ngộ.
Đây là bốn đặc tính tuyệt vời có được nơi Như Lai, là một bậc A La Hánđã hoàn toàn giác ngộ (Đấng Toàn Giác).
 
 
GIẢI THÍCH:
Trí Tuệ Sau Cùng (aññā)
Đức Phật đã nhắc đến loại “trí tuệ sau cùng” trong nhiều bàikinh[13]. Đây là loại trí tuệ phát sinh với đạo quả A La Hán. Trong cuộc đối thoại giữa Đức Phật và ngài Xá Lợi Phất (kinh Kaāra Sutta, Sayutta Nikāya II.1.4.2), Đức Phật định nghĩa trí tuệ sau cùng là trí tuệ hiểu: “Tái sinh đã chấm dứt. Cuộc sống Thánh thiện đang diễn ra. Điều cần làm đã làm xong, chẳng còn gì sinh khởi thêm nữa”.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
KINH HATTHAKA
(Hatthaka Sutta, Aṅguttara Nikāya III.35)
 
Một thuở nọ, Đức Phật ngồi trên đống lá gần lối mòn mà gia súc thường đi qua trong vườn cây Sisapā[14] gần Āavī. Lúc ấy, hoàng tử Hatthaka xứ Āavī đang đi bộ tới lui gần đó. Trông thấy Đức Phật ngồi trên đống lá gần lối mòn mà gia súc thường đi qua, ông đến đảnh lễ Đức Phật rồi ngồi sang một bên và nói rằng:
-     Thưa Ngài, Ngài ngủ có ngon giấc không?
-     Này hoàng tử, ta ngủ rất ngon giấc. Ta là một trong những người ngủ ngon nhất trong thế giới này.
-     Bây giờ là mùa đông, về đêm trời rất lạnh và tuyết rơi trong tám ngày nay[15]. Đất thô cứng trên lối đi đầy dấu chân thú[16], mà lớp lá Ngài trải (để ngồi) quá mỏng, lá trên cây lại thưa thớt và y áo của Ngài thật mỏng manh trong khi gió buốt từ trên cao ào ạt thổi. Sao Ngài lại nói nói rằng: “Này hoàng tử, ta ngủ rất ngon giấc. Ta là một trong những người ngủ ngon nhất trong thế giớinày”?
-     Để ta hỏi ông câu hỏi này, và ông hiểu như thế nào thì hãy trả lời như thế ấy. Giả sử có người chủ hộ hay con trai của ông ta có một căn nhà với mái ngói uốn cong, có tường che chắn trong ngoài, không gió lùa, có rào cản an toàn và các cửa đóng chặt. Bên trong có giường phủ chăn lông dày, có vải len trắng thêu, hoặc chăn làm bằng da linh dương với rèm đỏ bên trên cùng gối và gối dựa màu đỏ thẫm ở hai đầu giường. Và nơi đó, có ngọn đèn dầu thắp sáng, với bốn cô vợ yêu kiều hầu hạ bên cạnh. Theo ông, người này ngủ có ngon giấc không?
-     Ông ấy chắc chắn ngủ ngon. Ông ấy là một trong những người ngủ ngon nhất trong thế giới này.
-     Này hoàng tử, ông có nghĩ rằng cơn sốt do ái dục sinh khởi nơi thân và tâm của người này làm cho người này không thể ngủ ngon giấc?
-     Dạ có như vậy.
-     Này hoàng tử, cơn sốt do ái dục sinh khởi nơi thân và tâm của người này làm cho người này không thể ngủ ngon giấc. Nhưng Như Lai đã loại trừ ái dục, chặt gốc của nó như cây thốt nốt bị chặt lìa, tiêu hủy,làm cho nó không còn sinh khởi trong tương lai. Vì lẽ đó, ta ngủ ngon giấc.
Này hoàng tử, ông có nghĩ rằng cơn sốt do sân hận sinh khởi nơi thân và tâm của người này làm cho người này không thể ngủ ngon giấc?
-     Dạ có như vậy.
-     Này hoàng tử, cơn sốt do sân hận sinh khởi nơi thân và tâm của người này làm cho người này không thể ngủ ngon giấc. Nhưng Như Lai đã loại trừ sân hận, chặt gốc của nó như cây thốt nốt bị chặt lìa, tiêu hủy,làm cho nó không còn sinh khởi trong tương lai. Vì lẽ đó, ta ngủ ngon giấc.
Này hoàng tử, ông có nghĩ rằng cơn sốt do si mê sinh khởi nơi thân và tâm của người này làm cho người này không thể ngủ ngon giấc?
-     Dạ có như vậy.
-     Này hoàng tử, cơn sốt do si mê sinh khởi nơi thân và tâm của người này làm cho người này không thể ngủ ngon giấc. Nhưng Như Lai đã loại trừ si mê, chặt gốc của nó như cây thốt nốt bị chặt lìa, tiêu hủy,làm cho nó không còn sinh khởi trong tương lai. Vì lẽ đó, ta ngủ ngon giấc.
Không còn quyến luyến hạnh phúc thế gian,
tâm hằng mát mẻ,
nghiệp lực tái sinh đã cạn[17],
vịbà la môn ngủ giấc an lành.
 
Chặt đứt mọi ràng buộc,
loại bỏ đau khổ trong tâm,
tâm hằng tĩnh lặng,
người ấy luôn an giấc.
 
KINH ANIKA (Abhibhū)(Ānanda Vagga, Dutiya Paṇṇāsaka, Aguttara Nikāya III.80)
 
Ngày nọ, đại đức Ānanda đến gặp Đức Thế Tôn, tôn kính đảnh lễ Ngài, ngồi sang một bênvà thưa rằng:
-     Thưa Đức Thế Tôn, Ngài vẫn thường nói rằng: ‘Này Ānanda, một vị đệ tử của Đức Phật Sikhī tên Abhibhū[18]. Khi đứng ở cảnh giới Phạm thiên, vị này có thể làm cho 1.000 hệ thống thế giới nghe được điều mình nói’. Vậy thì một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác tự mình giác ngộ và đáng được cung kính có thể làm cho bao nhiêu hệ thống thế giới nghe được tiếng vị ấy nói?
-     Này Ānanda, Abhibhū chỉ là đệ tử của Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, khả năng của một vị Chánh Đẳng Chánh Giác là không thể nghĩ bàn.[19]
Đại đức Ānanda lại hỏi Đức Phật câu hỏi này lần thứ hai và rồi lần thứ ba. Đức Phật nói:
-     Này Ānanda, ông có nghe nói rằng anika lokadhātu (hệ thống thế giới nhỏ) gồm 1.000 thế giới nhỏ?
-     Thưa Đức Thế Tôn, đã đến lúc lắng nghe. Xin Thế Tôn chỉ dạy. Nghe Ngài nói, chưtăng sẽ ghi nhớ trong tâm.
-     Này Ānanda, hãy lắng nghe. Ta bắt đầu nói.
-     Dạ thưa vâng.
-     Ānanda, mỗi mặt trăng và mỗi mặt trời xoay theo chu kỳ của nó và tỏa sáng chung quanh. 1.000 đơn vị gồm 1.000 mặt trăng và 1.000 mặt trời như thế hợp lại tạo nên một 1.000 hệ thống thế giới nhỏ. Như vậy, trong 1.000 hệ thống thế giới nhỏ này, có 1.000 mặt trăng, 1.000 mặt trời, 1.000 núi Sineru, 1.000 vùng đất ở hướng Nam[20],1.000 vùng đất ở hướng Tây, 1.000 vùng đất ở hướng Bắc, 1.000 vùng đất ở hướng Đông, 1.000 Tứ Đại Dương(tứ đại dương nghĩa là bốn biển), 1.000 Tứ Đại Thiên Vương, 1.000 cõi của Tứ Đại Thiên Vương, 1.000 cõi Tam Thập Tam Thiên, 1.000 cõi trời Dạ Ma, 1.000 cõi trời Đâu Xuất, 1.000 cõi trời Hóa Lạc
Thiên, 1.000 cõi trời Tha Hóa Tự Tại, 1.000 cõi Phạm thiên. Này Ānanda, đây là 1.000 hệ thống thế giới nhỏ anika lokadhātu.
Này Ānanda, có 1.0002 hệ thống thế giới nhỏ anikalokadhātu như thế hợp lại tạo nên một hệ thống thế giới cỡ trung Majjhimikālokadhātu (gồm 1.000 nhân 1.000 tức một triệu thế giới hợp thành). Và 1.000 hệ thống thế giới cỡ trung như thế hợp lại tạo thành một hệ thống thế giới cỡ đại Mahāsahassīlokadhātu (gồm 1.000 x 1.000 x 1.000 tức là một tỉ thế giới hợp thành).
-     Thưa Đức Thế Tôn, bằng cách nào mà vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác có thể làm cho cả một hệ thống thế giới cỡ đại gồm triệu triệu thế giới hợp thành nghe được tiếng nói của Ngài, hoặc làm cho những thế giới mà Ngài muốn họ nghe có thể nghe được?
-     Này Ānanda, Như Lai tỏa ánh sáng đến khắp một hệ thống thế giới cỡ đại gồm triệu triệu thế giới hợp thành để những chúng sinh nơi đó hay biết, cảm nhận được ánh sáng này. Và Như Lai hướng âm thanh về đó, làm chúng sinh nghe được giáo pháp. Bằng cách này, ta làm cho pháp âm vang xa đến nơi nào ta muốn trong hệ thống thế giới cỡ đại này.
 
 
Nghe vậy, Đại đức Ānanda nói với tỳ khưu Udāyi:
-     Tôi quá may mắn. Tôi quá may mắn vì thầy của tôi quả thật vĩ đại và tuyệt vời!
Tỳ khưu Udāyi hỏi Đại đức Ānanda:
-     Này sư Ānanda, ông có được những lợi lạc gì khi có mộtvị thầy vĩ đại và tuyệt vời như thế chứ?[21]
Nghe vậy, Đức Thế Tôn nói:
-     Udāyi, ông không nên nói như vậy. Nếu như Ānanda qua đời trước khi tận diệt được tham ái trong tâm, vì sự tôn kính Như Lai, Ānanda sẽ được sinh vào cõi chư thiên trở thành vua trời Đế Thích trong bảy kiếp, hoặc tái sinh làm đại vương ở vùng đất hướng Nam trong bảy kiếp. Nhưng ta biết Ānanda sẽ kinh nghiệm loại trí tuệ sau cùng[22], chứng ngộ Niết Bàn ngay trong kiếp này.

 
 
 
KINH SUKHUMALA
(Aguttara Nikāya III.38)
 
Này tỳ khưu, ta đã được chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo, được chăm sóc nuôi dưỡng rất chu đáo và được chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo nhất hạng. Tại hoàng cung, ba hồ sen được xây dựng cho ta:một hồ toàn sen xanh, một hồ toàn sen đỏ, một hồ toàn sen trắng nở rộ. Ta chỉ dùng loại trầm hương xứ Kāsi, mũ, áo khoác, y nội vàkhăn trên đầu đều làm bằng vải xứ Kāsi[23]. Ngày lẫn đêm, dù, lọng trướng che trên đầu ta để cái nóng, lạnh, sương, bụi và cỏ không lấm nhiễm thân ta.
Vua cha xây cho ta ba cung điện: một dùng trong mùa đông, một dùng trong mùa hạ, và một dùng trong mùa mưa[24]. Ta sống bốn tháng trong cung điện mùa đông, được các vũ nữ hầu hạ[25](chẳng có nam vũ công nào nơi đây) và ta chẳng hề rời khỏi cung điện trong suốt thời gian này. Trong khi tôi tớ và nhân công ở các gia đình khác ăn cơm gạo nát và chút ít đồ chua qua bữa, tôi tớ và nhân công tại hoàng cung của cha ta được ăn cơm gạo ngon với thịt.
Này các tỳ khưu, trong cuộc sống thảnh thơi và sung túc, suy nghĩ bỗng sinh khởi trong tâm Như Lai:
“Phàm nhân đang lão hóa dần và không thể tránh khỏi già nua. Nhưng với một cái tâm chưa được huấn luyện thuần thục, người này quên đi tình trạng (lão hóa) của mình cho nên lẩn tránh, chối từ, cảm thấy ghê tởm khi thấy một người già lọm khọm. Chính ta đây rồi cũng sẽ già và không tránh khỏi cái chết. Vậy khi nhìn thấy một người già lọm khọm, ta không nên lẩn tránh, chối từ và cảm thấy ghê tởm như thế”.
Quán tưởng như thế, niềm tự hào về vóc dáng trẻ trung (yobbanamāna) không còn sinh khởi trong ta.
Và ta quán tưởng rằng:
“Phàm nhân không thể tránh khỏi bệnh tật, chắc chắn phải đương đầu với bệnh tật. Nhưng khi nhìn thấy một người bệnh, người này trốn tránh, chối từ và cảm thấy ghê tởm mà quên đi tình trạng của chính mình. Ta phải đương đầu với bệnh tật, không thể thoát khỏi bệnh tật. Vậy khi nhìn thấy một người bệnh, ta không nên lẩn tránh, chối từ và ghê tởm như thế”.
Quán tưởng như thế, niềm tự hào về sức khỏe của mình (arogyamāna) không còn sinh khởi trong ta.
Ta lại quán tưởng rằng:
“Phàm nhân chắc chắn sẽ chết, không tránh khỏi cái chết. Nhưng khi nhìn thấy một người chết, người này trốn tránh, chối từ và cảm thấy ghê tởm mà quên đi tình trạng của chính mình. Chính ta rồi sẽ chết, không thể thoát khỏi cái chết. Vậy khi nhìn thấy một người chết, ta không nên lẩn tránh, chối từ và ghê tởm như thế”.
Quán tưởng như thế, niềm tự hào về sự sống của mình (jīvitamāna) không còn sinh khởi trong ta.
Này tỳ khưu, có ba loại ô nhiễm, đó là gì? Ô nhiễm liên quan đến sự trẻ trung, sức khỏe và sự sống.
Một phàm nhân với cái tâm chưa được huấn luyệnthường tự mãn với sự trẻ trung và làm những điều xấu xa qua thân, khẩu, ý. Khi thân thể này bị hủy hoại, sau khi chết, người này sẽ tái sinh vào cảnh khổ, vào cảnh giới khốn cùng, vào cõi thấp, vào địa ngục.
Một phàm nhân với cái tâm chưa được huấn luyện thường tự mãn với sức khỏe dồi dào và làm những điều xấu xa qua thân, khẩu, ý. Khi thân thể này bị hủy hoại, sau khi chết, người này sẽ tái sinh vào cảnh khổ, vào cảnh giới khốn cùng, vào cõi thấp, vào địa ngục.
Một phàm nhân với cái tâm chưa được huấn luyện thường tự mãn với kiếp sống (tốt đẹp của mình) và làm những điều xấu xa qua thân, khẩu, ý. Khi thân thể này bị hủy hoại, sau khi chết, người này sẽ tái sinh vào cảnh khổ, vào cảnh giới khốn cùng, vào cõi thấp, vào địa ngục.
Không tự huấn luyện mình, khi ngã mạn, tự mãn với sự trẻ trung của mình, tỳ khưu sẽ tái sinh nơi cảnh giới thấp.
Không tự huấn luyện mình, khi ngã mạn, tự mãn với sức khỏe dồi dào, tỳ khưu sẽ tái sinh nơi cảnh giới thấp.
Không tự huấn luyện mình, khi ngã mạn tự mãn với cuộc sống của mình, tỳ khưu sẽ tái sinh nơi cảnh giới thấp.
“Đang chịu ảnh hưởng của bệnh tật, già nua và cái chết, lại ghê tởm trước bệnh tật, già nua và cái chết của kẻ khác, người như thế sẽ ra đi theonghiệp của mình. Ghê tởm trước chúng sinh vốn bị chi phối theo quy luật của bệnh tật, già nua và cái chếtquả là lầm lạc, vì chính ta cũng chẳng khác ai”.
Quán tưởng như thế, tâm chẳng còn muốn cưu mang, tâm vượt lên mọi ô nhiễm (ngã mạn, tham ái…) liên quan đến sự trẻ trung, sức khỏe và kiếp sống. Ta tìm gặp sự yên ổn trong hạnh buông xả và hỉ lạc sinh khởi trong ta. Khi chứng nghiệm Niết Bàn, lòng chẳng còn lưu luyến hạnh phúc thế gian[26]. Sống đời xuất gia, ta sẽ chẳng bao giờ quay quay lại.[27]
GIẢI THÍCH:
Ba cung điện: Ba cung điện này được mô tả chi tiết trong CGiải kinh Sukhumala Sutta thuộc Aṅguttara, CGiải kinh Magandiya Sutta thuộc Majjhimapaṇṇasa Phụ CGiải JinaIankara trong chương Agarikasampatti. Sau đây là phần tóm tắt từ những bản Chú Giải trên:
Khi Bồ Tát được 16 tuổi, vua Suddhodana mời những kiến trúc sư, thợ nề, thợ mộc, thợ điêu khắc và họa sĩ danh tiếng đến khởi công xây dựng ba cung điện này cho Bồ Tát cư trú.
Cung điện mùa đông (Ramma)
Gồm có chín tầng, cung điện và các phòng được xây thấp để giữ độ ấm. Các cửa sổ trong tư thế sư tử và hệ thống thông hơi được thiết kế sao cho hơi lạnh từ bên ngoài (tuyết, sương, gió lùa) không lọt vào. Hình ngọn lửa được vẽ trên tường, trên nóc, trên sàn trống để tạo cảm giác ấm áp khi nhìn vào các hình này. Những chuỗi dầu thơm, tràng hoa và ngọc trai được treo đó đây. Trần nhà được dát bằng len và lụa vốn rất mềm, mịn và ấm áp.
Trên đó, những ngôi sao làm bằng vàng, bạc, ruby long lanh phản chiếu ánh sáng từ ngọn lửa rọi vào. Ngoài ra, những bức màn bằng len và lưới mỏng được trang trí với những mảnh nhung lụa thật mềm mại. Quần áo len và nhung dùng trong mùa đông được chuẩn bị sẵn sàng. Thức ăn nóng, cay cũng được chuẩn bị chu đáo. Để giữ độ ấm bên trong cung điện, các cửa sổ được mở ra vào ban ngày và đóng lại vào ban đêm.
Cung điện mùa hạ (Suramma)
Gồm có năm tầng, toàn cung điện và các phòng được thiết kế để tạo sự thoáng khí. Các tầng được xây cao, cửa sổ và cửa kéo to và rộng để đón gió mát từ bên ngoài vào. Cửa chánh và cửa sổ được thiết kế tạo sự thoáng mát, một số cửa cái có lỗ thông hơi hoặc lưới (làm từ vàng, bạc hoặc sắt). Các bức tường, cột trụ và mái nhà được trang trí với các hình hoa sen xanh, đỏ và trắng tạo cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái cho người xem. Những vại nước đầy ắp nước được đặt cạnh cửa sổ và ở những nơi này, hoa sen đủ màu đang khoe sắc. Những vòi nước phun được thiết kế thay mưa làm dịu cơn nóng và cũng để tưới cây lá xung quanh.
Trong cung điện, các chậu hoa và những bồn nước chứa bùn thơm và bùn loãng được đặt đó đây ở các góc tường để trồng năm thứ hoa sen. Trần nhà được dát vải cô tông mềm mịn tạo sự mát mẻ. Ngoài ra, những bức tường dát vàng và những màn lụa thưa mịn được trang trí đẹp mắt. Thảm trắng được lót sàn để tạo cảm giác mát mẻ.
Quần áo trắng mỏng được chuẩn bị để dùng trong mùa hè. Thức ăn thơm ngon có tác dụng giải nhiệt cũng được chuẩn bị sẵn sàng. Mái cung điện được gắn những cái chuông nhỏ tạo ra những âm thanh vui tai và nhẹ nhàng như năm loại nhạc trời. Những miếng vàng mỏng với những lỗ nhỏ li ti được gắn sát dưới nóc cung điện và khi nước từ bốn hồ nước ở bốn phía cung điện được bơm lên, nước thấm qua trần nhà làm những giọt nước li ti rơi xuống như thể trời đang đổ mưa. Bên trên những miếng vàng mỏng này là những tấm da trâu khô và những hạt sỏi được một hệ thống máy đưa lên phía trên nóc và rồi thả xuống. Khi những hạt sỏi này rơi lên miếng da trâu, nó tạo ra âm thanh tương tự tiếng sấm sét vang trong mưa.
Có 108 chậu bằng vàng hoặc bạc chứa nước hoa thơm được đặt quanh giường ngủ được bao phủ bởi miếng lưới mỏng thêu hoa sen xanh. Hoa sen đủ màu trong các bồn nước bằng đồng đặt đó đây trong cung điện tạo ra cảm giác mát mẻ, thoải mái. Sen nở khi có ánh sáng mặt trời, ong mật bay quanh hoa sen để hút mật và cung điện Suramma luôn phảng phất hương hoa. Cửa cái được đóng kín vào ban ngày và mở ra vào ban đêm.
Hệ thống máy được sử dụng để bơm nước từ hồ lên, để gắp sỏi lên và thả xuống miếng da trâu tạo ra mưa và sấm sét nhân tạo. Bồ Tát mặc áo quần màu xanh da trời, thỏa thích tận hưởng sự mát mẻ và vui chơi với 40 ngàn tì nữ sực mùinước hoa trong những bộ quần áo xanh. Ở bốn phía cungđiện, năm loại hoa sen được trồng trong bốn hồ nước sạchmát rượi màu xanh ngọc.
 
Những loài chim nước như thiên nga, vịt, diệc đủ màu từ hồ nước phía đông vụt bay lên và lướt ngang qua cung điện tạo ra những âm thanh êm tai, rồi đáp xuống hồ nước phía tây. Cũng có lúc, những con chim bay từ hồ tây qua hồ đông, từ hồ bắc qua hồ nam, từ hồ nam qua hồ bắc. Trong suốt mùa hạ, Bồ Tát sống an vui nơi cung điện này như thể đang ở trong mùa mưa mát mẻ vậy.
Cung điện mùa mưa (Subha)
Gồm có bảy tầng, được thiết kế hoàn hảo, không thấp cũng không cao, không quá rộng cũng không quá hẹp, để tạo ra sự ấm áp và mát mẻ. Cửa cái và các cửa sổ chính được thiết kế phù hợp cho cả mùa nóng và mùa lạnh: có cửa được che chắn cẩn thận bằng ván và len, có cửa lại có nhiều lỗ nhỏ với lưới kim loại (bằng vàng, bạc hay đồng). Trên tường là những bức tranh vẽ cảnh ao hồ và lửa. Quần áo và thảm được chuẩn bị sẵn để dùng khi nóng nực hoặc khi lạnh và vật dụng trang trí nội thất dùng ở hai cung điện mùa đông và mùa hạ được sắp đặt tại đây. Một số cửa cái và cửa sổ được mở ban ngày và đóng ban đêm trong khi các cửa khác được mở ban đêm và đóng lại vào ban ngày.
Sau khi mô tả cuộc sống xa hoa, dục lạc của mình trong ba cung điện, Đức Phật nói trong kinh Magandiya Sutta (Majjhima Nikāya 75) về những hỉ lạc cao hơn hạnh phúc trần gian như sau:
“Khi sống đời tại gia, ta được chu cấp, hưởng thụ, cận kề cảnh sắc như ước nguyện: cảnh sắc đẹp đẽ đem đến sự thích thú, hài lòng liên quan đến dục trần, cảnh sắc làm phát sinh dục vọng. Khi sống đời tại gia, ta được chu cấp, hưởng thụ, cận kề âm thanh, mùi hương… vị nếm… sự xúc chạm như ước nguyện… Ta sống trong ba cung điện... chẳng hề bước ra ngoài cung điện. Lần nọ, khi hiểu ra sự thật sinh diệt, những quyến rũ, hiểm nguy và sự thoát khỏi dục lạc, ta từ bỏ tham ái, dập tắt lửa tham ái, sống không khát vọng, tâm hướng vào trong.
Ta thấy những chúng sinh chưa thoát khỏi tham ái vẫn tìm kiếm tham ái, bị tham ái hành hạ, chìm đắm trong tham ái.Nhưng ta chẳng tham đắm trong tham ái, chẳng ao ước hay ganh tị với họ. Vì sao vậy? Này Māgandiya, vì có loại hạnh phúc khác với dục lạc, khác với những bất thiện, vượt xa hạnh phúc thiên giới. Ta đã đạt được và sống an hưởng loại hạnh phúc này. Do vậy, ta chẳng ao ước hay ganh tị với loại hạnh phúc thấp kém hơn, chẳng vui hưởng loại hạnh phúc thấp kém hơn”.
Loại hạnh phúc mà Ngài nói đến trong kinh Magandiya Sutta là hạnh phúc an hưởng quả vị giải thoát. Một người “được chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo nhất hạng” và hưởng mọi lạc thú trần gian ở mức độ cao nhất như thế vẫn nhận ra loại hạnh phúc trần gian này chỉ có vậy, chứ không cao hơn. Do đó, chúng ta được khuyên từ bỏ hạnh phúc trần gian thấp kém, để có hạnh phúc giải thoát cao thượng vượt xa muôn lần hạnh phúc trần gian.
 
 
 
 
 
 
NĂM SỰ KIỆN LỚN
VÀO NGÀY RẰM THÁNG TƯ
 
1.   Đạo sĩ Sumedha vào thời Đức Phật Dīpakara
2.   Thái tử Siddhattha (Bồ Tát) ra đời
3.   Chiến thắng Ma Vương
4.   Thái tử Siddhattha đắc đạo thành Phật
5.   Đức Phật nhập Đại Niết Bàn và vị đệ tử cuối cùng tên Subaddha
Đức Phật kể tóm lược những kiếp quá khứ của mình bắt đầu từ kiếp Ngài là đạo sĩ Sumedha cho đến kiếp cuối cùng thành Phật Thích Ca.
Đạo sĩ Sumedha có thần thông và đã vun bồi ba la mật đến giai đoạn có thể trở thành một vị A La Hán. Nhưng Ngài chưa muốn giải thoát vì lòng bi mẫn muốn cứu độ chúng sinh (khỏi đau khổ trong sinh tử). Một ngày nọ, khi bay trên không trung, đạo sĩ thấy nhiều người bận rộn sửa lại con đường ở thành phố Rammavatī. Khi biết rằng Đức Phật Dīpakara và 400.000 tỳ khưu đang trên con đường đi đến thành phố này, đạo sĩ Sumedha tình nguyện tham gia sửa đường.
Vì đạo sĩ có thần thông, dân chúng giao cho ông sửa một đoạn đường khó khăn nhất. Nghĩ rằng dùng thần thông sửa đường sẽ không được nhiều phước báu, đạo sĩ Sumedha quyết định dùng sức của chính mình. Vì thế, ông không thể hoàn tất đoạn đường này vào lúc Đức Phật Dīpakara và các tỳ khưu đi đến.
Khi Đức Phật Dīpakara và các tỳ khưu đến, đạo sĩ nằm xuống đoạn đường lầy lội dùng thân làm cầu cho các vị này dẫm lên. Biết rất rõ rằng nếu Đức Phật Dīpakara và 400.000 tỳ khưu bước trên thân thể của mình thì ông sẽ chết, nhưng đạo sĩ vẫn sẵn sàng xả thân. Đức Phật Dīpakara hiểu rõ đức tin và ý muốn thành Phật của vị đạo sĩ này mạnh mẽ không gì lay chuyển nổi. Ngài cũng thấy trước rằng trong tương lai xa xôi, vị đạo sĩ này sẽ trở thành Phật. Vì thế, Ngài tuyên bố rằng đạo sĩ Sumedha sẽ thành Phật sau khi vun bồn ba la mật trong bốn a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp trái đất kể từ ngày đó.
Đức Phật Dīpakarabước sang một bên, tránh không dẫm lên lưng vị đạo sĩ này. Các tỳ khưu cũng bước sang một bên và đồng thanh thốt lên: “Sādhu! Sādhu! Sādhu!” để bày tỏ lòng quý kính vị tân Bồ Tát này.
 
 
 
Bồ Tát Siddhattha đản sinh
Hoàng hậu Māyā lấy vua Suddhodana và thọ thai. Từ Kapilavathu, hoàng hậu đến Devadaha để thăm người em trai và sinh con nơi đó. Trên đường đi, bà hạ sinh thái tử Siddhattha tại vườn Lumbini, dưới những tàng cây long thọ trổ đầy hoa. Vừa ra đời, thái tử bước đi bảy bước, chỉ tay lên trời và nói rằng:
"Trên trời dưới đất chẳng ai bằng ta.
Ta là bậc cao thượng nhất trên đời.
Đây là kiếp sống cuối cùng,
và ta chẳng bao giờ phải tái sinh lần nữa”.
Sách vở ghi lại rằng với những phẩm tính có một không hai của Ngài, bụng mẹ chỉ để dành cho Ngài và vì thế, hoàng hậu Māyāqua đời bảy ngày sau đó.
Thái tử Siddhattha chiến thắng Ma Vương và đắc đạo thành Phật
Cùng thực hành khổ hạnh với một nhóm đạo sĩ,Bồ Tát (Thái tử Siddhattha) hầu như chẳng ăn uống gì làm cho thân thể Ngài kiệt quệ và không thể đắc đạo được. Ngài rời nhóm đạo sĩ tu khổ hạnh này và quyết định tìm kiếm một cách thức tự giải thoát. Nhìn thân hình Ngài tiều tụy như bộ xương khô, cô Sujātā dâng Ngài cháo sữa trong cái bát vàng. Bồ Tát nhận lấy và ăn 49 ngụm cháo. Rồi Ngài ném cái bát vàng xuống sông và nguyện nó sẽ trôi ngược dòng nếu như Ngài có thể đắc đạo ngay trong ngày hôm ấy. Cái bát trôi ngược dòng như Ngài ước.
[Sách vở ghi lại rằng tại đây, các vị Phật trước kia cũng đã nguyện như thế và ném cái bát vàng xuống sông. Nơi dòng sông đó, con rồng ađang ngủ say (từ thời mà vị Bồ Tát trước ném cái bát vàng xuống đó) chợt thức dậy vì tiếng va chạm của hai cái bát vàng (cái bát mà vị Bồ Tát trước đã ném xuống và cái bát mà Bồ Tát vừa ném xuống). Và con rồng biết rằng một vị Phật nữa sắp ra đời trên thế gian.]
Bồ Tát quyết định ngồi dưới cội cây Bồ Đề hành thiền và nguyện chỉ đứng dậy khi thành đạo. Một người tên Sotthiya dâng Ngài tám nắm cỏ. Ngài trải cỏ và ngồi trên đó hành thiền đến khi mặt trời lặn. Lúc đó, Ma Vương (Māra) cùng đội hùng binh của nóđến yêu cầu Ngài rời khỏi cội cây Bồ Đề.[28] Ma Vương nói rằng chỗ này thuộc về Ma Vương và đội hùng binh xác nhận như thế.
 
Chẳng có ai bảo vệ, Bồ Tát đưa tay chạm đất và gọi đất làm nhân chứng cho những ba la mật mà Ngài đã vun bồi từ thời Đức Phật Dīpakara. Vì mỗi khi làm phước thiện, Ngài luôn hồi hướng phước báu đến tất cả chúng sinh và thần Đất. Được gọi làm nhân chứng, mặt đất rung chuyển dữ dội khiến Ma Vương và đội hùng binhkhông đứng vững và bỏ chạy. Ma Vương rơi khỏi lưng voi Girimekhalāđánh mất cái kèn Bernwa.
(Ma Vương lầm tưởng rằng mình là người cao nhất và có nhiều uy quyền nhất, có thể cai quản và sai khiến mọi chúng sinh. Ma Vương nghĩ rằng khi Bồ Tát đắc đạo, chính Ngài và những người Ngài giúp đắc đạo sẽ không còn nằm dưới quyền cai trị và kiểm soát của mình.Vì thế, Ma Vương cản trở không cho Bồ Tát đắc đạo. Về sau, chính Ma Vương thỉnh cầu Đức Phật sớm nhập diệt).
Và rồi trong canh đầu đêm hôm đó, Bồ Tát có được Túc Mạng Thông thấy được vô số kiếp quá khứ của mình kể từ lúc gặp Đức Phật Dīpakara và trước đó. Trong canh hai, Bồ Tát có được Thiên Nhãn Thông hiểu rõ chúng sinh chết và tái sinh theo nghiệp đã tạo của họ. (Với Thiên Nhãn Thông, Ngài còn có thể thấy bất cứ cái gì Ngài muốn thấy, như chư thiên có thể nhìn thấy vậy). Trong canh ba, Bồ Tát đạt được Lậu Tận Thôngđểbiết rằng tất cả ô nhiễm trong tâm Ngài đã hoàn toàn bị loại trừ và rằng Ngài sẽ chẳng bao giờ tái sinh lần nữa. Ngài đã thành Phật!
Đức Phật nhập Đại Niết Bàn và vị đệ tử cuối cùng tên Subaddha
Cũng như các vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, Đức Phật Thích Ca đến Kusinara nhập diệt. Khi khởi hành, Ngài đồng ý dùng trưa ở chỗ người thợ bạc Cunda. Sau khi thọ thực, Ngài bị tiêu chảy nặng, phảinghỉ 26 lần trên đường từ Pāvā đến Kusinara. Khi đến Kusinara, Ngài nằm chỗ đã dọn sẵn giữa hai cây long thọ xoay mặt về hướng tây và đầu về hướng bắc.
Vào lúc đó, đạo sĩ Subaddha đến. Trước kia, với lòng kiêu mạn, vị đạo sĩ này không muốn đến hỏi Đức Phật ba câu hỏi vì nghĩ  rằng Đức Phật kém hơn ông đến 20 tuổi. Ông đã hỏi rất nhiều vị đạo sĩ tiếng tăm ba câu hỏi này, nhưng không thỏa mãn với những câu trả lời của họ. Khi biết Đức Phật sẽ nhập diệt ngày hôm đó, đạo sĩ Subaddha đến và thỉnh cầu Đại đức Ānanda cho phép ông được gặp Đức Phật. Ba câu hỏi của ông là:
“1.Có phải những ai tuyên bố mình đắc đạo đều hiểu được giáo pháp? 2. Có thể chăng một nửa trong số họ hiểu còn một nửa thì không? 3. Hay họ chẳng hiểu giáo pháp chi cả?”
Đức Phật nói rằng trong số những người thực hành Bát Chánh Đạo, có người đắc đạo trở thành Thánh Nhập Lưu Tu Đà Hườn (Sotāpanna), Thánh Nhất Lai Tư Đà Hàm (Sakadāgāmī), Thánh Bất Lai A Na Hàm (Anāgāmī) và Thánh Vô Sanh A La Hán (Arahant).
Không thể tìm thấy những người như thế bên ngoài Bát Chánh Đạo. Và Sagha, đệ tử của Đức Phật, thực hành Bát Chánh Đạo.
Đạo sĩ Subaddha vô cùng mừng rỡ khi nghe những câu trả lời mà ông chưa từng được nghe trước đó. Rồi ông nói: “Con đã hiểu giáo pháp” và xin được thọ giới tỳ khưu. Đức Phật dạy ông phương pháp hành thiền một cách vắn tắt. Và trước khi Đức Phật nhập Đại Niết Bàn, vị này trở thành A La Hán trong lúc đang đi kinh hành.
Cũng như các vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, Đức Phật nhập Nhất thiền, Nhị thiền và lên dần đến tầng thiền thứ tám. Rồi Ngài vào trạng thái Diệt Thọ - Tưởng - Định Nirodhasamāpatti (ngừng thở, ngừng các sắc pháp –ngoại trừ sắc pháp do nghiệp tạo kammajarūpa và các trạng tái tâm để hưởng hạnh phúc an lạc) và hạ dần từ tầng thiền Định thứ tám đến Nhất thiền. Rồi từ Nhất thiền Ngài nhập định lên dần đến Tứ thiền. Đến đây, Ngài nhập Đại Niết Bàn[29].
Trongquyển Buddhavasapāi,Đức Phật kể tóm lược những kiếp quá khứ của Ngài bắt đầu từ lúc là đạo sĩ Sumedha cho đến kiếp cuối cùng thành Phật Thích Ca.

 
TRÍCH LƯỢC MỘT SỐ BÀI KINH
 
“…Này các tỳ khưu, ở đây thửa ruộng không lồi lên lõm xuống, không có đầy đá và sạn, không có đất mặn, thửa ruộng có bề sâu, có chỗ nước chảy ra, có chỗ nước chảy vào, có nước chảy, có bờ đê. Này các tỳ khưu, hạt giống được gieo vào thửa ruộng hội đủ tám yếu tố này được xem là trổ quả lớn lao, có vị ngọt ngào, là nơi tăng thịnh.
Tương tự như thế, này các tỳ khưu, cúng dường đếnbậc xuất gia, bà la môn thành tựu tám yếu tố sẽ đem đến kết quả lớn, lợi ích lớn, thành tựu rạng rỡ, lớnlao.
Thế nào là thành tựu tám yếu tố? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu hay bà la môn có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Cúng dường các tỳ khưu hay bà la môn thành tựu tám yếu tố trên sẽ đem đến kết quả lớn, lợi ích lớn, thành tựu rạng rỡ, lớnlao”.[30]
(Kinh Thửa Ruộng- Aguttara Nikāya VIII.34)
 
“Bao kẻ vì run sợ,
tìm kiếm sự chở che,
nương tựa nơi đồi núi,
rừng rú hay cây thiêng,
hoặc đền tháp, lâu đài.
(Những nơi này)
chẳng phải chốn nương tựa,
an toàn hay cao thượng,
vì(người ấy) chẳng thoát khổ đau.
 
Nhưng quay về nương tựa,
Phật - Pháp - Tăng, Tam Bảo,
có trí tuệ hoàn hảo,
hiểu rõ Tứ Thánh Đế,
chính là nơi nương tựa,
an toàn và cao thượng,
thoát khỏi mọi khổ đau”.
(Kinh Pháp Cú 188-192)
“Chỉ thân cận bậc trí,
Chỉ kết bạn bậc trí,
Cầu giáo pháp bậc trí,
Ta  trở nên tốt hơn,
Chẳng thể nào tệ hơn.
   
 
Chỉ  thân cận bậc trí,
Chỉ kết bạn bậc trí,
Cầu giáo pháp bậc trí,
Trí tuệ này phát sinh.
                   
Chỉ thân cận bậc trí,
Chỉ kết bạn bậc trí,
Cầu giáo pháp bậc trí,
Ta sẽ không than khóc,
Giữa những người khóc than.
   
Chỉ thân cận bậc trí,
Chỉ kết bạn bậc trí,
Cầu giáo pháp bậc trí,
(Người ấy khác biệt) nổi bật giữa thân thích.
 
Chỉ thân cận bậc trí,
Chỉ kết bạn bậc trí,
Cầu giáo pháp bậc trí,
(Người ấy) trên đường đến cõi phúc.
 
Chỉ thân cận bậc trí,
Chỉ kết bạn bậc trí,
Cầu giáo pháp bậc trí,
(Người ấy) sống tự tại yên lành.
 
 
Chỉ thân cận bậc trí,
Chỉ kết bạn bậc trí,
Cầu giáo pháp bậc trí,
(Người ấy) vượt lên mọi khổ đau”.
(Với Các Chư Thiên, Sayutta Nikāya 1.31)
Bhikkhave, aññenāpi mayi sineha vantena Bhikkhunā nāma, Dhammārāmasadiseneva bhavi-tabba. Na hi mayha mālāgandhādīhi pūja karontā mama pūja karonti nāma, dhammānudhamma paipajjantāyeva pana ma pūjenti nāma.
“Này chư tỳ khưu, tỳ khưu nào có lòng kính yêu nơi Như Lai, thì tỳ khưu ấy nên noi gương theo Dhammārāma. Những người làm lễ cúng dường đến Như Lai bằng vật thơm, tràng hoa… không phải là cúng dường đến Như Lai. Các Đệ tử đang hành thiền Minh Sát dẫn đến chứng đắc chín pháp Siêu thế[31] mới thật là cúng dường đến Như Lai”.
(Dhammapadaṭṭhakathā, tích Ngài Dhammārāmatthera)
 
 
Mỗi Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện trên thế gian, có khả năng tế độ một số lượng khoảng 24 a tăng kỳ 600 triệu và 100 ngàn chúng sinh được giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
Đức Phật Gotama có tuổi thọ 80 năm, thuyết pháp tế độ chúng sinh suốt 45 năm, chưa tế độ đủ số lượng 24 a tăng kỳ 600 triệu và 100 ngàn chúng sinh. Do đó, khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, giáo pháp được lưu truyền đến 5.000 năm trên cõi người để tiếp tục tế độ chúng sinh cho đủ số lượng ấy.
Sau đó, những ai hành thiền Minh Sát không có khả năng đắc đạo trở thành Thánh nhân nữa, mà chỉ có thể vun bồi ba la mật để chứng đắc trong kiếp vị lai. Phật tử chúng ta đang ở vào thời kỳ 1.000 năm thứ ba. Trong thời kỳ này, chúng ta nên có niềm tin nơi giáo pháp của Đức Phật Thích Ca, nơi pháp hành Minh Sát (con đường Trung đạo) và cố gắng hành theo. Cónhư thế, chúng ta mới có thể giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
 
 
-      o0o -


[1]Tám yếu tố để được thành Bồ Tát: kiếp đó phải là: (1) người, (2) nam giới, (3) có đầy đủ khả năng trở thành A La Hán, (4) gặp Đức Phật hiện tiền, (5) là đạo sĩ có đức tin nơi nghiệp quả, (6) đắc các tầng thiền (sắc giới hay vô sắc giới) và có thần thông, (7) hy sinh vị tha không kể mạng sống của mình, (8) muốn trở thành Phật.
[2] The Great Chronicles of the Buddhas, page 14 (vol I, Singapore edition).
[3]10pāramī (ba la mật): Dāna (bố thí, ban cho), Sīla (giới hạnh), Nekkhama (từ khước, xuất gia), Paññā (trí tuệ), Viriya (tinh tấn, kiên trì bền chí), Khanti (kham nhẫn), Sacca (chân thật), Adhiṭṭhāna (quyết tâm dũng mãnh), Mettā (tâm từ)và Upekkhā (tâm xả).
[4]Cāga (Mahāpariccāga): đại bố thí, buông xả, hay ban bố năm loại: tài sản, vợ,con, các bộ phận cơ thể và mạng sống của chính mình. Cariyalà phát triển giới hạnh vì lợi lạc của tất cả chúng sinh (lokatthacariya), của chính mình và quyến thuộc (natatthacariya) và để thành tựu quả vị Phật (Buddhatthacariya).
[5] Một thế giới gồm có 31 cảnh giới, với ngọn Meru ở giữa và bốn châu lục Đông, Tây, Nam, Bắc ở bốn bên. Và theo Phật giáo, có đến 10,000 thế giới như thế hiện hữu.
[6] Tuệ này được hiểu hai cách: 1. Nhóm năm loại tuệ hiểu biết liên quan đến các cảnh giới, gồm: nơi tái sinh, việc gì xảy ra, sự sinh khởi, sự kéo dài và sự chấm dứt của của tâm.2. Nhóm gồm năm loại tuệ: a)tuệ biết 30 cảnh giới nơi chúng sinh có sắc (rūpa) và một cảnh giới nơi chúng sinh chỉ có tâm, b) tuệ biết sự sinh khởi của tâm-vật chất, c) tuệ biết bản chất vô thường, khổ và vô ngã của tâm-vật chất, d) tuệ biết bản chất liên tục thay đổi của tâm-vật chất và e) tuệ biết sự tận diệt của tâm-vật chất(Niết Bàn).
[7] Hiểu biết căn cơ cao thấp có nghĩa là hiểu biết năm căn, Tín-Tấn-Niệm-Định-Tuệ, của chúng sinh này đã trưởng thành, chín muồi và có khả năng đắc đạo quả hay chưa. Qua đó, Ngài biết cách giảng pháp thích hợp và đúng thời giúp cho năm căn này lớn mạnh để đắc đạo (theo The Discourse on the HemavataSutta, by Mahasi Sayadaw).
[8] Vào lúc sắp thành Phật, Bồ Tát ngồi thiền và có được thiên nhãn thông thấy hình tướng của chúng sinh ở các thế giới xa gần và thấy cảnh giới mà chúng sinh sẽ tái sinh sau khi chết. Khi thành Phật, với thiên nhãn thông của vị Phật Toàn Giác, Ngài thấy rõ 31 cảnh giới. (theo The Discourse on the Hemavata Sutta, by Mahasi Sayadaw).
[9]Ālaya = ta (tham ái). Và đây là tham ái vào năm dục trần: cảnh sắc, âm thanh, mùi, vị nếm và xúc chạm qua thân.
[10]Anālaya, đối nghịch với ālaya.
[11]Odahatiaññā (có trí tuệ) citta upaṭṭhapeti (hướng tâm tới). Aññā: là trí tuệ do kinh nghiệm đạo quả A La Hán.
[12]Anupasama (anu-không + upasama-yên tĩnh, thanh tịnh) có nghĩa là vọng tưởng (uddhacca).
[13]Satipaṭṭhāna Sutta (Majhima Nikāya 10), Susīma Sutta (Sayutta Nikāya 12), Sīla Sutta (Sayutta Nikāya 46), Dvephalā Sutta (Sayutta Nikāya 48), Phalā Sutta (Sayutta Nikāya 51), Phalā Sutta (Sayutta Nikāya 54)…
[14] Đây là loài cây có thân to chắc, ở gần Āavī SetavyāKosambi thời Đức Phật. Theo tự điển Pāi-Anh của Rhys Davids, ở Ấn Độ ngày nay, tên loài cây này là “shisham" hay “Dalbergiasisoo”.
[15] Theo Chú Giải, đây là thời điểm vùng này có tuyết trong năm. Tám ngày có tuyết rơi này ở vào khoảng giữa tháng hai dương lịch.
[16]Kharā gokaṇṭaka hatā bhūmi”: nền đất gia súc dẫm lên thật là thô cứng. (khara: thô, cứng)
[17]Nirūpadhi”: người mà nghiệp lực tái sinh đã cạn, tức là vị A La Hán
[18] Đại đức Abhibhū là một trong hai vị trưởng đại đệ tử của Đức Phật Sikhī, cũng như Đại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai vị trưởng đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca vậy.
[19]Sāvako so Ānanda appameyyā tathāgatā. Theo CGiải, Đức Phật nói rằng: ‘Ānanda, sao ông lại nói vậy? Vị này chỉ là đệ tử, có được một phần trí tuệ. Nhưng chư Phật Chánh Đẳng Chánh Giác Tathāgata đã hoàn hảo 10 ba la mật và có trí tuệ siêu thế, nên khả năng của các vị là không thể nghĩ bàn. Phạm vi, mức độ và năng lực của một đệ tử và của một vị Phật khácnhauxa một trời một vực, như đem một chút bụi đất dính trên móng tay so với đất trên trái đất này vậy”.
[20]Jambudīpa là vùng đất ở hướng Nam, bao gồm Ấn Độ.
[21]Udāyi là vị sư phạm nhiều sai lầm khiến Đức Phật đặt ra vô số giới luật cho tỳ khưu. Theo CGiải, vị này đã từng lên tiếng chống đối Đại đức Ānanda làm thị giả cho Đức Phật. Vào lúc này, vị đó đang tìm cớ chê bai Đại đức Ānanda, vì Đại đức Ānanda chưa thành A La Hán.
[22] Đạo quả A La Hán
[23] Theo CGiải, Kāsi là một trong 16 tiểu bang ở Ấn Độ, có thủ đô là Bārānasi.
[24] Phía bắc Ấn Độ có ba mùa: mùa đông kéo dài từ tháng mười một đến tháng ba, mùahạ kéo dài từ tháng ba đến tháng bảy, và mùa mưa kéo dài từ tháng bảy đến tháng mười một. Cung điện mùa đông có chín tầng, được xây thấp để giữ nhiệt. Cung điện mùa hạ có năm tầng, được xây cao để thoáng gió. Và cung điện mùa mưa có bảy tầng không thấp cũng không cao để tạo nhiệt độ quân bình.
[25] Chẳng có một người đàn ông nào phục vụ trong cung điện này và chẳng có người nam nào được gặp hoàng tử trong suốt thời gian này.
[26] Hạnh phúc thế gian tức “ngũ dục” gồm cảnh sắc đẹp, âm thanh hay, mùi thơm, vị ngon và sự xúc chạm đem đến cảm giác thích thú.
[27] Theo CGiải, câu này có nghĩa là từ lúc thiền dưới cội Bồ Đề và đắc đạo cho đến khi lìa đời, Ngài chẳng hề quay lại thế gian.
[28] Đây là Thánh địa nơi các vị Bồ Tát trước kia đã ngồi thiền và đắc đạo, giờ đây đến lượt Bồ Tát Gotama. Vì lý do này, Ma Vương tìm cách quấy phá Bồ Tát. Sau khi Bồ Tát Gotama thành Phật, Bồ Tát Metteyya cũng sẽ đến đây ngồi thiền và đắc đạo thành vị Phật cuối cùng trong cõi này.
[29] Tất cả các vị Phật Bích Chi/Độc Giác Pacceka Buddha đều có thần thông. Các vị Phật Bích Chi/Độc Giác sẽ đến một cái động trong số những động đá Nandamūla ở Ấn Độ để nhập Đại Niết Bàn. Tại đó, vị Phật Bích Chi/Độc Giác này sẽ dịch chuyển thể xác của vị Phật Bích Chi đã nhập diệt trước đó để ngồi đúng nơi đó và nhập Đại Niết Bàn.  Và chỉ khi giáo pháp của chư Phật không còn tồn tại trên thế gian thì các vị Phật Bích Chi mới ra đời.
[30]Eva aṭṭhagasamannāgatesu, bhikkhave, samaabrāhmaesu dāna dinna mahapphala hoti mahānisasa mahājutika mahāvipphāra’’nti
[31]Bốn Thánh Đạo, bốn Thánh quả và Niết Bàn


                                
♦  CHƯƠNG II  ♦
 
BẢN CHẤT PHÙ DU, TẠM BỢ
vàHIỂM NGUY_____________________________________________________________________________________________________
 
KINH AGUTTARA NIKĀYA I.333-347
Này tỳ khưu, tại Jambudīpa[1] có ít vườn cây (ārāma), rừng cây (vana), công viên (bhūmi) và ao sen (pokkhara:paduma) hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi (ukkhūlavikūla), sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít chúng sinhsanhtrên cạn, nhưng chúng sinh sanh dưới nước thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít chúng sinh được sanh ra làm người nhưng chúng sinh sanhra những nơi nào khác thì vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpa có ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít người sinh ra giữa đô thị nhưng chúng sinh sinh ra ở vùng ven giữa những người xa lạ[2] thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpa có ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình. Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít chúng sinh thông minh, trí tuệ, sắc sảo, biết phân biệt đúng sai, nhưng chúng sinh vô minh, chậm hiểu, đần độn, không biết phân biệt đúng sai thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình. Nhưng (tại vùng đất này) có nhiềucao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, nhữngvùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tươngtự như thế, có ít chúng sinh có được tuệ nhãn[3], nhưng chúng sinh vô minh, tâm trí lu mờ thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpa có ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình. Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít chúng sinh có tuệ nhãn biết phân biệt đúng sai, nhưng chúng sinh mù mờ vô minh thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình. Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít chúng sinh được nhìn thấy Như Lai, nhưng chúng sinh không được nhìn thấy Như Lai thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít chúng sinh được nghe Như Lai giảng giải về giáo pháp và giới luật, nhưng chúng sinh không được nghe Như Lai giảng giải về giáo pháp và giới luật thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình. Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, sau khi nghe Như Lai giảng Pháp, có ít chúng sinh nhớ pháp đã được nghe. Nhưng chúng sinh không nhớ phápđã được nghe thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, sau khi nghe Như Lai giảng Pháp và nhớ phápđã được nghe, có ít chúng sinh tìm hiểu ý nghĩa của các pháp ấy. Nhưng chúng sinh không tìm hiểu ý nghĩa của các phápấy thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội,những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, sau khi tìm hiểu rõ nghĩa của cácPhápmà NhưLai giảng, có ít chúng sinh hành theo các phápấy. Nhưng chúng sinh không hành theo các phápấy thì nhiều vô số kể.
 
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tươngtự như thế, có ít chúng sinh thấy sự khẩn cấp cần thiết của việc tu tập[4].Nhưng chúng sinh không thấy sự khẩn cấpcần thiết của việc tu tập thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít chúng sinh thấy được sự khẩn cấp, cần thiết của việc tu tập và dốc lòng tu tập. Nhưng chúng sinh thấy được sự khẩn cấp cần thiết của việc tu tập mà không dốc lòng tu tập thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít chúng sinh có được sự định tâm và nhất tâm sau khi đạt đến trạng thái buông bỏ các pháp.[5]Nhưng chúng sinh không có được sự định tâm và nhất tâm như thế thì nhiều vô số kể.
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít chúng sinh được thưởng thức những thức ăn ngon bậc nhất, nhưng có vô số chúng sinh không nếm được thức ăn ngon, ngoại trừ chút thức ăn thừa xin được (trong bát ăn xin).
Này tỳ khưu, tại Jambudīpacó ít vườn cây, rừng cây, công viên và ao sen hữu tình.Nhưng (tại vùng đất này) có nhiều cao nguyên dốc đứng khó đi, sông suối khó lội, những vùng đất đầy bụi lùm, gai nhọn và đồi núi hiểm trở. Tương tự như thế, có ít chúng sinh được nếm hương vịPháp bảo và hương vị giải thoát,[6]nhưng có vô số chúng sinh không nếm được hương vị Pháp bảo và hương vị giải thoát.
Vì lẽ đó, này tỳ khưu, hãy luôn rèn luyện, nhắc nhở chính mình rằng: “Chúng ta rồi sẽ hiểu giáo pháp, nếm được hương vịgiáo pháp, nếm được hương vị giải thoát”. Các ông nên rèn luyện, nhắc nhở mình như thế.
 
GIẢI THÍCH:
“Appakā te sattā ye vavassag­gā­rammaa karitvā, labhanti samādhi labhanti cittas­sekagga­ta”:Có ít chúng sinh có được sự định tâm và nhất tâm sau khi đạt đến trạng thái buôngbỏ các pháp.
Trong câu này, “vavassagga ārammaa karitvā” được dịch là “sau khi buông bỏ các pháp (đối tượng)”:Vassagga hayvossagga (buông bỏ) + ārammaa (đối tượng) + karitvā (sau khi làm xong).
Theo chú giải, câu này có nghĩa là kinh nghiệm Niết Bàn, khi tâm không còn lấy các đối tượng sinh khởi có điều kiện làm đề mục quan sát nữa.
Một trong những định nghĩa của Niết Bàn là “akuppatā”- trạng thái tâm vững chãi, không dao động. Tâm không bắt lấy các đối tượng có điều kiện nữa, nên tâm không còn dao động. Và điều này trùng hợp với việc “có được sự định tâm và nhất tâm”. Cho nên nói: “Có được sự định tâm và nhất tâm sau khi đạt đến trạng thái buông bỏ các pháp”.
 
 
 
 
 
 
LỜI DẠY CỦA ARAKA
(Arakenanusasani Sutta, Aguttara Nikāya VII.70)
Này chưtỳ khưu, thuở nọ có một vị giáo chủ tên Araka, người không còn tham đắm hạnh phúc trần gian. Ông có đến 500 đệ tử và ông dạy các đệ tử như sau:
- Này các vịbà la môn, kiếp người thật ngắn ngủi, hạn hẹp, đầy căng thẳng và nhiều lo âu. Hãy khôn ngoan quántưởng điều này. Hãy làm điều thiện lành, sống đời phạm hạnh. Bởi lẽ khi sinh ra, chẳng ai thoát khỏi cái chết.
Này các vịbà la môn, giọt nước trên đầu ngọn cỏ nhanh chóng bốc hơi dưới ánh nắng mặt trời, chẳng thể tồn tại lâu. Như giọt nước, kiếp người thật ngắn ngủi, hạn hẹp, đầy căng thẳng và nhiều lo âu. Hãy khôn ngoan quán tưởng điều này. Hãy làm điều thiện lành, sống đời phạm hạnh. Bởi lẽ khi sinh ra, chẳng ai thoát khỏi cái chết.
Khi có cơn mưa to nặng hạt, những bong bóng trên mặt nước nhanh chóng tan biến, chẳng thể tồn tại lâu. Như những bong bóng nước, kiếp người thật ngắn ngủi, hạn hẹp, đầy căng thẳng và nhiều lo âu. Hãykhôn ngoan quán tưởng điều này. Hãy làm điều thiện lành, sống đời phạm hạnh. Bởi lẽ khi sinh ra, chẳng ai thoát khỏi cáichết.
 
Một lằn được vẽ trên nước bằng một cọng cây tan nhanh, chẳng thể tồn tại lâu. Như lằn vẽ trên nước tan nhanh, kiếp người thật ngắn ngủi, hạn hẹp, đầy căng thẳng và nhiều lo âu. Hãy khôn ngoan quán tưởng điều này. Hãy làm điều thiện lành, sống đời phạm hạnh. Bởi lẽ khi sinh ra, chẳng ai thoát khỏi cái chết.
Khi nước từ núi cao tuôn xuống, nó chảy xiết cuốn theo mọi thứ. Dòng nước tuôn ào ạt, chảy liên tục mà chẳng hề dừng lại dù trong khoảnh khắc, chốc lát hay chỉ một sát na. Như dòng nước từ cao tuôn xuống, kiếp người thật ngắn ngủi, hạn hẹp, đầy căng thẳng và nhiều lo âu. Hãy khôn ngoan quán tưởng điều này. Hãy làm điều thiện lành, sống đời phạm hạnh. Bởi lẽ khi sinh ra, chẳng ai thoát khỏi cái chết.
Một người khỏe mạnh có thể phun nước bọt nơi đầu lưỡi ra ngoài mà chẳng cần ráng sức. Như miếng nước bọt, kiếp người thật ngắn ngủi, hạn hẹp, đầy căng thẳng và nhiều lo âu. Hãy khôn ngoan quán tưởng điều này. Hãy làm điều thiện lành, sống đời phạm hạnh. Bởi lẽ khi sinh ra, chẳng ai thoát khỏi cái chết.
 
 
Miếng thịt ném vào cái chảo và đun nóng cả ngày sẽ nhanh chóng biến mất, không tồn tại lâu. Như miếng thịt (biến mất, không tồn tại lâu), kiếp người thật ngắn ngủi, hạn hẹp, đầy căng thẳng và nhiều lo âu. Hãy khôn ngoan quán tưởng điều này. Hãy làm điều thiện lành, sống đời phạm hạnh. Bởi lẽ khi sinh ra, chẳng ai thoát khỏi cái chết.
Như con bò bị dẫn đến lò mổ,mỗi bước đi là mỗi bước đến gần lò mổ, đến gần cái chết. Như con bò sắp bị mổ thịt, kiếp người thật ngắn ngủi, hạn hẹp, đầy căng thẳng và nhiều lo âu. Hãy khôn ngoan quán tưởng điều này. Hãy làm điều thiện lành, sống đời phạm hạnh. Bởi lẽ khi sinh ra, chẳng ai thoát khỏi cái chết.
Vào lúc đó[7], này các tỳ khưu, tuổi thọ con người là 60.000 năm, các cô gái lập gia đình lúc 500 tuổi. Và vào lúc đó, chỉ có sáu điều đau khổ trong đời là lạnh, nóng, đói, khát, đi đại tiện và tiểu tiện[8]. Dù con người sống lâu với rất ít đau khổ trong đời như thế, nhưng vị thầy Araka dạy các đệ tử rằng:
 
“Này các vịbà la môn, kiếp người thật ngắn ngủi, hạn hẹp, đầy căng thẳng và nhiều lo âu. Hãy khôn ngoan quán tưởng điều này. Hãy làm điều thiện lành, sống đời phạm hạnh. Bởi lẽ khi sinh ra, chẳng ai thoát khỏi cái chết”.
Này các tỳ khưu, giờ đây, một người nên nói với lời lẽ chân thật rằng: “Kiếp người thật ngắn ngủi, hạn hẹp, đầy căng thẳng và nhiều lo âu. Hãy khôn ngoan quán tưởng điều này. Hãy làm điều thiện lành, sống đời phạm hạnh. Bởi lẽ khi sinh ra, chẳng ai thoát khỏi cái chết”.
Này các tỳ khưu, giờ đây, một người trường thọ có thể sống đến 100 năm hay hơn. Sống 100 năm, người này trải qua 300 mùa gồm 100 mùa lạnh, 100 mùa nóng và 100 mùa mưa. Trải qua 300 mùa là người này sống được 1.200 tháng gồm 400 tháng lạnh, 400 tháng nóng và 400 tháng mưa. Sống được 1.200 tháng, người này trải qua 2.400 lần nửa tháng gồm 800 nửa tháng trong mùa lạnh, 800 nửa tháng trong mùa nóng, 800 nửa tháng trong mùa mưa.
Sống được 2.400 lần nửa tháng là người này trải qua 36.000 ngày gồm 12.000 ngày lạnh, 12.000 ngày nóng và 12.000 ngày mưa. Sống 36.000 ngày, người này ăn 72.000 bữa gồm 24.000 bữa trong mùa lạnh, 24.000 bữa trong mùa nóng và 24.000 bữa trong mùa mưa. Và có những trở ngại khiến (người ta) không ăn được: vì giận, vì buồn phiền, vì đau bệnh, vì giữ giới hay vì chẳng kiếm được cái gì để ăn.
Thế đó, này các tỳ khưu, ta nhận ra tuổi thọ của những người sống đến trăm năm qua những mùa mà họ sống, những tháng, những nửa tháng, ngày, đêm, những bữa ăn và những trở ngại khiến họ không ăn được. Bất cứ việc gì mà một vịthầy cần làm(xuất phát từ lòng bi mẫn, vì lợi lạc của đệ tử mình), ta đã làm cho các ông. Đây là những gốc cây, đây là những chỗ trống. Hãy hành thiền, này các tỳ khưu! Đừng lười biếng dễ duôi để rồi hối tiếc. Đây là lời giáo huấn của ta đến các ông.
 
GIẢI THÍCH:
Vị giáo chủ Araka được nói đến trong kinh này sống trong thời kỳ tuổi thọ củacon người là 60.000 năm. Trong chuyện tiền thân Đức Phật (phần Araka jātaka) có nói đến vị giáo chủ tên Araka (tiền thân Đức Phật Thích Ca) người không còn tham đắm những hạnh phúc trần gian. Ông có nhiều tín đồ và ông dạy họ phát triển tâm từ để được tái sinhnơicõi Phạm thiên.Và vị này đã tái sinh nơi đó sống đến bảychu kỳ trái đất. Nhưng không thấy chú giải nhắc đến mối liên hệ giữa hai nhân vật Araka này.
 
 
 
 
 
 
BÀI KINH ĐẦU TIÊN
vềHAIVỊ BÀ LA MÔN GIÀ
(Pahama Dve-Brāhmaa Sutta, Aguttara Nikāya III.51)
 
Thuở đó cóhaivịbà la mônyếu ớt, già cả, quá già nua, lớn tuổi, đang sống những năm tháng cuối của cuộc đời, đã 120 tuổi. Họ đến gặp Đức Thế Tôn, chào hỏi đúng lễ nghi, ngồi qua một bên và nói với Đức Thế Tôn rằng:
-     ThưangàiGotama (Cồ Đàm), chúng tôi là những người thuộc dòng dõi bà la môn, đã yếu ớt, già cả, quá già nua, lớn tuổi, đã 120 tuổi. Ở những năm tháng cuối cuộc đời, chúng tôi vẫn chưa làm được thiện nghiệp, những điều đem lại phước báu, những điều có thể bảo vệ chúng tôi khỏi nguy hiểm (nguy hiểm phải tái sinh vào khổ cảnh). Xin ngàiGotama đáng kính dạy dỗ chúng tôi, chỉ bảo cho chúng tôi làm sao để được hạnh phúc, lợi lạc lâu dài?
-     Các ông là những người thuộc dòng dõi bà la môn, đã yếu ớt, già cả, quá già nua, lớn tuổi, đã 120 tuổi. Ở những năm tháng cuối cuộc đời, các ông vẫn chưa làm được thiện nghiệp, những điều đem lại phước báu, những điều có thể bảo vệ các ông khỏi nguy hiểm (nguy hiểm phải tái sinh vào khổ cảnh).
Này ông bà la môn, già, bệnh, chết lôi kéo chúng sinh đi. Khi bị lôi kéo như thế, có người canh gác, thu thúclời nói và ý tưởng của họ. Chính sự canh gác này bảo vệ họ, là nơi trú ẩn, là chỗ dựa, là nơi nương nhờ và chốn nghỉ ngơi khi họ giã từ thế giới này.Cuộc sống tiến dần đến cái chết, đó là điều không tránh khỏi. Cuộc sống này ngắn ngủi biết bao! Chẳng có gì che chở, bảo vệ chúng sinh khỏi già nua. Ai thấy biết hiểm nguy của cái chết, người ấy nên vun bồi thiện nghiệp để mưu cầu hạnh phúccho mình. Thu thúc lời nói và ý nghĩ trong kiếp này, làm những điều thiện lành và tạo nên phước báu khi còn sống trên cõi đời này sẽ đem đến hạnh phúc, an vui khi người giã từ cõi thế”.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
BÀI KINH THỨ HAI
về HAI VỊ BÀ LA MÔN GIÀ
(Dutiya Dve-Brāhmaa Sutta, Aguttara Nikāya III.52)
 
Thuở đó có hai vị bà la môn yếu ớt, già cả, quá già nua, lớn tuổi, đang sống những năm tháng cuối của cuộc đời, đã 120 tuổi. Họ đến gặp Đức Thế Tôn, chào hỏi đúng lễ nghi, ngồi qua một bên và nói với Đức Thế Tôn rằng:
-     ThưangàiGotama,chúng tôi là những người thuộc dòng dõi bà la môn, đã yếu ớt, già cả, quá già nua, lớn tuổi, đã 120 tuổi. Ở những năm tháng cuối cuộc đời, chúng tôi vẫn chưa làm được những điều tốt lành, những điều đem lại phước báu, những điều có thể bảo vệ được chúng tôi khỏi nguy hiểm. Xin ngàiGotama đáng kính dạy dỗ chúng tôi, chỉ bảo cho chúng tôi làm sao để được hạnh phúc, lợi lạc lâu dài?
-     Các ông là những người thuộc dòng dõi bà la môn, đã yếu ớt, quá già nua, lớn tuổi, đã 120 tuổi. Ở những năm tháng cuối cuộc đời, các ông vẫn chưa làm được những điều tốt lành, những điều đem lại phước báu, những điều có thể bảo vệ được các ông khỏi nguy hiểm.Này ông bà la môn, già, bệnh, chết thiêu đốt chúng sinh. Khi bị thiêu đốt như thế, có người canh gác, thu thúc lời nói và ý tưởng của họ. Chính sự canh gác này bảo vệ họ, là nơi trú ẩn, là chỗ dựa, là nơi nương nhờ và chốn nghỉ ngơi khi họ giã từ thế giới này.Khi nhà bị cháy, của cải được gấp rút lấy ra. Tài sản nào không bị lửa thiêu cháy sẽ trở nên hữu dụng cho chủ nhà.
Tương tự như thế, khi thế giới này bị thiêu đốt bởi ngọn lửa của già nua và chết chóc, hãy thoát ra bằng sự bố thí cúng dường. Của cho đi là của được lấy ra (khỏi căn nhà đang bốc cháy).Quả thật, canh gác lời nói và ý nghĩ trong kiếp này, làm những điều thiện lành và tạo nên phước báu khi còn sống trên cõi đời này sẽ đem đến hạnh phúc, an vui khi người giã từ cõi thế.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
BÀI KINHNHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT
(Assu Sutta, Sayutta Nikāya 15.3)
 
Tại Rājagāha (thànhVương Xá), Đức Phật giảng như sau:
-     Này các tỳ khưu, trong vòng luân hồi vô tận khó tìm ra điểm khởi đầu, vô minh và tham ái đã xô đẩy chúng sinh vào vòng sinh tử.Và họ cứ mãi phiêu bạt, lang thang. Trong vòng luân hồi vô tận đó, các ông đã rơi bao nhiêu nước mắt, đau khổ khóc than khi phải tiếp xúc, gần gũi những gì mình không ưa thích và xa lìa những gì mình yêu thích. Những giọt nước mắt đã rơi đó nếu đem sánh với nước trong bốn biển đại dương, nước nào nhiều hơn?
-     Như lời Ngài đã dạy, trong vòng luân hồi dài vô tận, chúng con đã tuôn bao nhiêu nước mắt khi phải tiếp xúc, gần gũinhững gì mình không ưa thích và xa lìa những gì mình yêu thích. Và nước mắt khóc vì khổ đau phiền muộn này còn nhiều hơn nước trong bốn biển.
-     Lành thay, lành thay, lành thay! Các ông đã hiểu đúng những gì Như Lai giảng dạy. Trong vòng luân hồi vô tận, các ông đã tuôn bao nhiêu nước mắt khi phải tiếp xúc, gần gũi những gì mình không ưa thích và xa lìa những gì mình yêu thích. Và nước mắt rơi vì khổ đau phiền muộn này còn nhiều hơn nước trong bốn biển.
Từ lâu lắm rồi, các ông đã chứng kiến cái chết của mẹ, của cha, của anh chị em trong gia đình, các ông đã từng chứng kiến cái chết của con trai và con gái của mình, các ông đã từng chứng kiến cái chết của họ hàng thân thích, những mất mát tài sản và sự chết chóc vì bệnh tật. Đã lâu lắm rồi trong luân hồi sinh tử, các ông đã đau khổ khóc than khi phải tiếp xúc, gần gũinhững gì mình không ưa thích và xa lìa những gì mình yêu thích. Nước mắt phiền muộn tuôn rơi còn nhiều hơn nước trong bốn biển.
Vì sao? Vì trong vòng luân hồi dài vô tận khó tìm thấy điểm khởi đầu, chúng sinh bị vô minh và tham ái xô đẩy, nên mãi trôi dạt lang thang trong sinh tử. Đã lâu lắm rồi, các ông sống trong đau khổ, mất mát, căng thẳng, và (xác chết của các ông) đã chất đầy các nghĩa địa. Quá đủ! Đã đến lúc các ông nên nhàm chán các pháp (sabbasakhāresu), đã đến lúc các ông nên buông bỏ mọi danh sắc, đã đến lúc các ông nên thoát ra khỏi những ràng buộc của thân tâm.[9]
 
 
 
 
BÀI KINH VỀ NHỮNG GIỌT MÁU(Tisa Sutta, Sayutta Nikāya 15.3)
Một thuở nọ, khi Đức Phật ngụ tại Trúc Lâm thuộcRājagāha, có 30 tỳ khưuhành hạnh đầu đà ẩn dật trong rừng sâu, chuyên trì bình khất thực, mặc y làm từ những mảnh vải vụn lượm đó đây và chỉ giữ tam y. (Nghiêm túc tu tập như thế) nhưng các vị vẫn chưa loại trừ được ô nhiễm trong tâm.Từ Pāvā, các vị này đi đến đảnh lễ Đức Phật và ngồi sang một bên.
Đức Phật nghĩ rằng: “Mặc dù 30 tỳ khưunày hành hạnh ẩn dật trong rừng sâu, chuyên trì bình khất thực, mặc y làm từ những mảnh vải vụn lượm đó đây và chỉ giữ tam y, họ vẫn chưa loại trừ được ô nhiễm trong tâm. Để ta giảng một thời pháp mà trong khi đang ngồi tại đây nghe giáo pháp, tâm của các vị này sẽ đạt đến trạng thái buông bỏ, giải thoát và không còn ô nhiễm nữa”. Đức Phật gọi các tỳ khưu:
-     Này các tỳ khưu!
 
Các tỳ khưutrả lời:
-     Dạ thưa Đức Thế Tôn!
Đức Phật nói như sau:
-     Này cáctỳ khưu, trong vòng luân hồi dài vô tận khó tìm ra điểm khởi đầu, vô minh và tham ái đã xô đẩy chúng sinh vào vòng sinh tử.Và họ cứ mãi phiêu bạt, lang thang. Trong vòng luân hồi dài vô tận đó, các ông đã bị chặt đầu và biết bao nhiêu máu đã rơi. Những suối máu tuôn rơi đó nếu đem sánh với nước trong bốn biển đại dương, thì nước nào nhiều hơn?
-     Như lời Ngài đã dạy, trong vòng luân hồi vô cùng tận đó, chúng con đã bị chặt đầu và biết bao nhiêu máu đã rơi. Những suối máu tuôn rơi đó còn nhiều hơn nước trong bốn biển.
-     Lành thay, lành thay, lành thay! Các ông đã hiểu đúng những gì Như Lai giảng dạy. Trong vòng luân hồi vô cùng tận ấy, đầu các ông đã rơi và biết bao nhiêu máu đã đổ. Những suối máu tuôn rơi đó còn nhiều hơn nước trong bốn biển.Đã lâu lắm rồi, các ông sống kiếp trâu bò, cừu, dê, nai, gà và heo. Từ lâu lắm rồi, các ông đã nhiều lần là kẻ trộm, kẻ cướp dọc đường, các ông đã nhiều lần mang tội tà dâm.Và khi bị chặt đầu, những suối máu tuôn rơi còn nhiều hơn nước trong bốn biển.Vì sao? Vì trong vòng luân hồi vô tận khó tìm thấy điểm khởi đầu, chúng sinh luôn bị vô minh và tham ái xô đẩy, nên mãi trôi dạt lang thang trong sinh tử. Đã lâu lắm rồi, các ông sống trong đau khổ, mất mát, căng thẳng, và xác chết của các ông đã chất đầy các nghĩa địa. Quá đủ! Đã đến lúc các ông nên nhàm chán các pháp, đã đến lúc các ông nên buông bỏ mọi danh sắc, đã đến lúc các ông nên thoát ra khỏi những ràng buộc của thân tâm.
Đức Phật nói như thế và các tỳ khưuthỏa thích với những gì Ngài đã dạy. Và trong khi lắng nghe giáo pháp, tâm của 30 vịtỳ khưuđến từ Pāvā đạt đến trạng thái buông bỏ, giải thoát khỏi mọi tham ái.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
BÀI KINH VỀ MŨI TÊN
(Salla Sutta, Khuddaka Nikāya III.8)
 
Cuộc sống này rồi tiến dần đến cái chết mà chẳng có một dấu hiệu hay một điềm báo trước nào. Cuộc sống quả thật gian truân, ngắn ngủi và đầy phiền muộn. Sinh ra đời, ta chẳng thể nào lẩn tránh cái chết. Khi tiến dần đến tuổi già, cái chết cận kề. Đây là bản chất của cuộc đời. Như trái chín có nguy cơ rơi rụng, với những ai sinh ra và phải chết, nỗi sợ lìa đời canh cánh trong lòng. Người thợ gốm làm những cái bình gốm nhỏ to, đã nung và chưa nung, và những cái bình này đều sẽ bể nát. Tương tự như thế, cái chết rồi sẽ đến dập nát cuộc đời.
Trẻ hay già, khôn ngoan hay si mê, giàu hay nghèo, tất cả chúng sinh rồi sẽ bị cái chết cắt lấy mạng sống, chúng sinh sẽ đối diện cái chết ở cuối đời. Bị cái chết cướp đi mạng sống, họ lại sinh về cõi khác. Cha chẳng giữ nổi con, người thân chẳng thể giữ người ra đi. Nhìn kẻ sắp ra đi, họ hàng thân thích than khóc. Nhưng rồi từng người lần lượt bị thần chết dắt đi, như những con bò bị đưa về lò giết thịt.Như thế đó, thế giới này ảm đạm, tang tóc bởi già nua và cái chết.
 
Nhưng người trí hiểu bản chất cuộc đời nên chẳng khócthan. Bạn chẳng biết người ấy đến từ đâu, đi về đâu. Chẳngbiết từ nơi nào người đến và người đi về nơi đâu, thì than khóc có lợi ích gì? Nếu khóc than đem đến nhiều lợi lạc thì người trí đã làm như thế. Chỉ có người si mê mới tự hại mình. Khóc lóc than thở, tâm chẳng được an vui, và nhiều đau khổ khác sinh khởi nhưthân bị hủy hoại, người tiều tụy xanh xao, người chỉ tự hại mình. Ta không thể bảo vệ kẻ ra đibằng than khóc. Than khóc nào có lợi ích gì.
Không từ bỏ than khóc, người càng thêm đau khổ. Sầu muộn kẻ ra đi, người bị khóc than hành hạ. Hãy nhìn xem bao người ra sao với những nghiệp mà họ đã tạo. Chúng sinh run sợ, hãi hùng khi đối đầu với cái chết. Sống trong mộng tưởng, nhưng thực tế quá đỗi phũ phàng. Ngăn cách, chia lìa là bản chất của thế gian!Dù sống đến trăm năm hay hơn thế nữa, ai cũng phải xa lìa người thân, giã từ cuộc sống. Vì vậy, lắng nghe lời dạy của bậc A La Hán, người hãy từ bỏ khóc than. Nhìn một người lìa đời, ta nên nghĩ rằng:“Tôi sẽ chẳng gặp người này nữa”.
Lửa trong ngôi nhà đang bốc cháy có thể được dập tắt bởi nước.Tương tự như thế, người trí, với nhận thức đúng đắn, điêu luyện và khôn ngoan sẽ lập tức loại trừ đau khổ sinh khởi trong tâm, như ngọn gió thổi phăng những cụm bông gòn vậy. Người tìm kiếm an vui nên nhổ ra mũi tên phiền muộn, tham ái và đau khổ.Khi mũi tên đã được lấy ra, khi buông bỏ, người sẽ kinh nghiệm trạng thái tâm an lạc. Và khi người vượt qua khóc than phiền muộn, không còn khóc than phiền muộn, người chứng ngộ Niết Bàn.
 
GIẢI THÍCH:
Một thiện nam đau đớn vì có người con trai vừa qua đời nên bỏ ănbảy ngày. Khi nghe Đức Phật giảng bài này, ông buông bỏ tham ái dính mắc, trở thànhThánh Nhập Lưu, chấm dứt khóc than.
 
 
 
-      o0o   -
 
 
 
 
 

[1] Là vùng đất phía nam (bao gồm xứ Ấn Độ). Theo Chú Giải, gọi là jambu (cây giòi rose-apple) vì trong vùng Hy Mã Lạp Sơn có cây jambu khổng lồ  cao 50 yojana, đường kính thân cây là 15 yojana, tàn lá xòe rộng đến 100 yojana. (mộtyojana bằng bảy dặm, có chú giải ghi là chín dặm.)
[2] Theo Chú Giải, đó là người thô lỗ, người sống ngoài lề xã hội, người không sống đời Thánh thiện.
[3]Tathāgatadassanāya, theoChú Giải có nghĩa là tuệ nhãn của bậc Thánh nhân(Ariya paññā cakkhu).
[4] Tám điều thôi thúc một người gấp rút tu tập (savega): sinh, già, bệnh, chết, đau khổ trong bốn cảnh khổ (a tu la,  ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục), đau khổ vì đã trôi lăn trong luân hồi, đau khổ vì sẽ tiếp tục trôi lăn trong luân hồi, đau khổ vì tìm kiếm thức ăn.
[5]Appakā te sattā ye vavassag­gā­rammaa karitvā, labhanti samādhi labhanti cittas­sekagga­ta.
[6] Hương vị của bốn Thánh đạo, bốn Thánh quả và Niết Bàn.
[7] Vào thời vị giáo chủ Araka sống.
[8] Theo kinh Cakkavatti Sīhanāda, khi con người có tuổi thọ 80.000 năm, phụ nữ sẽ lập gia đình ở tuổi 500. Và lúc đó chỉ có ba loại đau khổ là tham ái (icchā), đói (anasana) và già (jarā).
[9]Sabbasakhāresu”: các pháp sinh khởi có điều kiện, tức mọi pháp ngoại trừ Niết Bàn. Trong trường hợp này, các pháp đó là danh sắc, tức thân tâm hay ngũ uẩn mà con người thường bám níu, cho chúng là “tôi” hay “của tôi”. 
 
♦CHƯƠNGIII♦
                                                                                 
HẠNH PHÚC THẾ TỤC vàXUẤT GIA_______________________________________________________________________________________________________
 
BÀI KINH VỀ NGƯỜI CHĂN GIA SÚC
(Dhaniya Sutta, Khuddaka Nikāya 1.2)
 
Dhaniya[1]:
“Cơm đã chín (pakkodano)
sữa đã xong (khiro)
tôi sống với người thân,
bên bờ sông Mahī.
Mái nhà tôi đã lợp,
lửa tôi đã mồi,
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Đức Phật:
“Ta không hề giận dỗi (akkodhano) 
bực bội vốn không còn (khilo) 
Bên bờ Mahī, ta nghỉ qua đêm.
Mái nhà ta rộng mở,[2]
lửa trong ta lụi tàn,[3]
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Dhaniya:
“Chẳng muỗi mòng nơi đây,
bò gặm cỏ (tina) trên đồng,
chúng có thể đứng trong mưa.
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Đức Phật:
“Bè vượt sông chắc chắn,[4]
đã được kết chặt rồi.
Đã đến bến bờ kia,
vượtqua (tinna) cơn lụt lội,
ta chẳng cần tìm bè.
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Dhaniya:
“Vợ tôi hiền lành và cẩn thận,
dễ thương và chung thủy đến giờ,
tôi chẳng nghe tai tiếng bao giờ.
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Đức Phật:
“Tâm ta hiền hòa, giải thoát,
đã từ lâu được dạy dỗ, dưỡng nuôi,
nay ô nhiễm chẳng còn.
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Dhaniya:
“Tôi tự mình kiếm sống,
con cái vốn thuận hòa, không bệnh tật,
tôi chẳng nghe tai tiếng bao giờ.
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Đức Phật:
“Ta chẳng làm gì kiếm sống,
vinh dự dạo đó đây trong thế giới này,
(vì đã giải thoát)
chẳng cần tìm kế sinh nhai.
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Dhaniya:
“Đây là những con bò cái, bò đực,
nghé và bò sữa,
đây là con bò đực đầu đàn.
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Đức Phật:
“Ta chẳng có bò cái, bò đực,
chẳng có nghé và bò sữa,
chẳng có bò đực đầu đàn.
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn.
Dhaniya:
“Cọc đã được đóng cứng,
dây ách được bện chặt bằng cỏ mũnja,
chẳng bò đực nào bứt được.
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Đức Phật:
Ta đã phá vỡ các sợi thừng,
như con bò đực vạm vỡ,
như con voi khỏe mạnh,
bứt rời sợi dây ách,
ta chẳng bao giờ,
nằm trong bào thai nữa.
Hỡi Thần Mưa,
cứ mưa nếu muốn”.
Rồi mưa tuôn từ đám mây to,tràn ngập những vùng đất cao, thấp.Nghe tiếng mưa tuôn xối xả,Dhaniya, người chủ trại thốt lên:
-     Ta sẽ lợi lạc biết bao, khi ngắm nhìn, chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn.Hãy đến gặp Ngàivà nương tựa bậccó trí nhãn.Hỡi bậc đáng kính, xin hãy là thầy của chúng con!Con và vợ con sẽ theoNgài, xin được sống đời phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ngài.Con nguyện đến bờ bên kia,nơi không còn già nua và cái chết,và đoạn tuyệt mọi phiền muộn, khổ đau.
 
Ma Vươngbỗng xuất hiện:
“Người có con cái, vui vì con cái
người có bò vui vì bò,
người ta tìm vui nơi của cải và tài sản.
Người chẳng có của cải, sẽ chẳng có niềm vui”.
Đức Phật:
“Có con khổ vì con,
có gia súc khổ vì gia súc,
người ta đau khổ vì của cải và tài sản.
Người chẳng tậu của cải chẳng khổ bao giờ”.
 
GIẢI THÍCH:
Trong bài kinh này, Dhaniya và Đức Phật không đối đáp với nhau, mà cả haivịnói chuyện với thần mưa! Qua đó, cả hai vịcùng bày tỏ sự vô tư không phiền muộn, nhưng ở hai góc độ khác nhau.
Nhưng mưa cũng cần được hiểu là những khó khăn, nguy hiểm trong đời. Trong một số bài kinh, Đức Phật dạy về bốncơn lụt (oghā) gồm tham dục, tham muốn tái sinh, tà kiến và vô minh. Nói về bốncơn lũ lụt hay bốn bạo lưu này, kinh điển định nghĩa: “Gọi là cơn lụt vì nó nhận chìm chúng sinh trong biển luân hồi, không cho vượt lên giải thoát. Gọi là cơn lụt vì nó ào ạt cuốn trôi những ai đang mê ngủ, nên người trí phải luôn tỉnh thức cho đến khi đến bến bờ bên kia (giải thoát), nơi lũ lụt không còn”.
KỆ 1 và 2:
Dhaniya có nhà cửa kiên cố nên ông cảm thấy tự tin, tuyên bố rằng thần mưa cứ mưa (vì ông sẽ không bị ảnh hưởng gì cả). Ngược lại, Đức Phật từ xa đến Mahī chẳng có nhà cửa trú mưa, chẳng có của cải và chẳng có ai giúp đỡ, nhưng Ngài vẫn an nhiên tự tại, tuyên bố rằng thần mưa cứ mưa (vì tâm Ngài không lo lắng điều chi).
Dhaniya đã có lửa ấm đốt lên để sưởi lạnh, nên ông tuyên bố rằng thần mưa cứ mưa. Đức Phật nói rằng lửa trong tâm Ngài (lửa dục vọng, sân hận, si mê, già, bệnh, chết, phiền muộn, than khóc, đau đớn, khổ sở, thất vọng) đã tắt ngấm nên lòng Ngài bình yên, tĩnh lặng, không bị bất cứ cái gì làm chao động, do vậy thần mưa cứ mưa.
Đây là lối ẩn dụ tuyệt vời: người đời cho rằng của cải bảo đảm sự an vui của mình, mà không biết rằng tham ái trong tâm (với của cải, vợ con) đang đốt cháy họ nên họ không thực sự an vui. Họ khờ khạo vui với của cải, nhưng thực ra họ khổ vì tham ái hành hạ. Trong khi Đức Phật không có của cải nhưng không bị khổ vì tham ái, nên chuyện đời có hay không, mưa hay nắng chỉ là những tạm bợ đổi thay, chẳng làm Ngài bận tâm. Dhaniya đại diện cho những gì trần tục vô minh, còn Đức Phật là biểu hiện của buông bỏ, xả ly và trí tuệ.
KỆ 3 và 4:
Dhaniya mô tả cuộc sống thuận lợi của mình: đồng cỏ xanh mướt (sẵn cho bò ăn), không muỗi mòng (cắn và làm bò bệnh) nên ông yên tâm, chẳng có gì phải lo.Đức Phật nói rằng Ngài đã qua được bờ bên kia (nơi mà Ngài thường mô tả là khô ráo, không còn lụt lội, đau khổ) nên chẳng lo bị mưa bão, lụt lội nữa. Ở đây, mưa bão, lụt lội cần được hiểu là những khó khăn, nguy hiểm trong đời, nhưng cũng là bốncơn lụt (oghā). Vì Dhaniya nghĩ cuộc đời của ông cứ trôi chảy tốt đẹp, ông không biết chẳng có gì tồn tại vĩnh viễn lâu dài, nên tận hưởng một loại an vui trong vô minh, khờ dại. Ông không biết là bốn cơn nước lũ đã, đang và sẽ nhận chìm mình triền miên trong sinh tử luân hồi.
KỆ 5 và 6:
Dhaniya nói về người vợ hiền lành, dễ thương và có tâm tánh tốt nên ông yên tâm, hài lòng và chẳng có gì để lo. Đức Phật nói rằng tâm Ngài đã được dạy dỗ, dưỡng nuôi nên hiền hòa và chẳng còn ô nhiễm nên Ngài yên tâm và chẳng có gì để lo. Nơi đây, “tâm tánh tốt” mà Đức Phật nói đến là cái tâm không còn ô nhiễm tham, sân, si. Dhaniya không hề biết là cái tâm đầy tham ái, ngã mạn của mình đang làm khổ mình, nên cứ ung dung tự tại.
 
KỆ 7 và 8:
Dhaniya nói rằng mình sống tự lập chẳng dựa dẫm ai, còn con cái thì khỏe mạnh, siêng năng, ngoan ngoãn và hòa thuận. Có một gia đình như thế làm ông rất hài lòng, nên mặc trời mưa, ông vẫn vui. Đức Phật nói rằng Ngài chẳng dựa dẫm ai (theo nghĩa đã hoàn tất đường tu của mình). Tự tại rong ruổi đó đây, Ngài khất thực để ăn nên chẳng cần tiền bạc. Do vậy, trời có mưa hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì đến Ngài. Theo CGiải, Đức Phật chẳng làm công cho ai, cũng chẳng làm công cho chính mình, nói cách khác, Ngài chẳng thuộc sự điều khiển của tham ái.
KỆ 9 và 10:
Dhaniya khoe mình có nhiều bò cái, bò đực và nghé con (theoCGiải, ông có đến 30.000 con bò). Mưa chẳng làm hao tổn gia sản của ông và do vậy, trời cứ mưa nếu muốn. Đức Phật nói rằng Ngài vô sản chẳng có bò cái, bò đực và nghé con nên chẳng phải lo lắng về sự mất còn của tài sản!
KỆ 11 và 12:
Dhaniya kể rằng ông làm hàng rào trại bò vững chắc với dây thừng bện cỏ muñja nên dù khỏe mạnh, con bò đầu đàn cũng không phá nổi rào, do đó chẳng cần lo âu. Đức Phật nói rằng như con bò hay con voi vạm vỡ, Ngài đã phá vỡ các sợi thừng,bứt rời dây ách[5] nên không còn bị nhốt trong vòng tái sinh, không còn nằm trong bào thai nữa. Do vậy, Ngài chẳng có gì để lo âu về tương lai hay quá khứ.
KỆ 13:
Đến đây, trời bỗng đổ cơn mưa thật lớn ngập hết những vùng đất thấp cao khiến cho cảm giác thỏa thích an toàn nơi của cải, gia đình của Dhaniya bỗng tiêu tan. Nhờ cơn mưa mà cả hai vợ chồng hiểu được bản chất phù du, vô giá trị của cuộc đời và Dhaniya bỗng thay đổi, trở nên thông minh trí tuệ hẳn! Hai vợ chồng cùng đến bờ sông Mahīgặp Đức Phật và ông thành khẩn nói rằng:
“Chúng con thật may mắn, quá may mắn được gặp Đức Phật. Chúng con xin quay về nương tựa Ngài, xin Ngàichỉ dạy chúng con”.
Hiểu được sự đổi thay, tạm bợ trong đời và muốn vượt qua cơn thác lũ sinh tử, cả hai xin xuất gia theo Phật.
KỆ 14 và 15:
Vì không muốn Dhaniya xuất gia, nên Ma Vương cố tìm cách dụ dỗ ông trở lại đời, nói rằng có của cải, gia đình và con cái sẽ có hạnh phúc, người không của cải (người xuất gia) sẽ không có hạnh phúc.
Nhưng Đức Phật khẳng định rằng có của cải và gia đình sẽ khổ vì của cải và gia đình. Và người không có của cải và gia đình sẽ không có gì để khổ.Bài kinh này chỉ ra hai loại hạnh phúc đối nghịch. Người đời tìm kiếm hạnh phúc thế gian và cảm thấy thỏa mãn, hạnh phúc nhiều hơn khi sở hữu được nhiều thứ. Ngược lại, người xuất gia tìm kiếm và vui hưởng loại hạnh phúc buông bỏ, như Đức Phật đã tuyên bố: có của cải và gia đình sẽ khổ vì của cải và gia đình, nhưng người không có của cải và gia đình sẽ không có gì để khổ.
 
 
 
BÀI GIẢNG
CHO THIỆN NAM POTALIYA
 
(Potaliya Sutta, Majjhima Nikāya 54)
 
Tôi nghe như vầy…
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngụ tại xứ của người Aguttarāpa nơi có phố chợ Āpaa[6]. Một buổi sáng nọ, Ngài đắp y, ôm bát vào Āpaa khất thực. Sau khi khất thực và ăn trưa xong, Ngài vào rừng, đi đến một gốc cây và ngồi xuống nghỉ.
Lúc ấy, ông chủ hộ Potaliya ăn mặc chỉnh tề, chân mang dép, tay cầm dù, đi tới đi lui quanh đó. Thả bộ vào rừng, ông đến chỗ Đức Thế Tôn chào hỏi thân thiện. Sau khi chào hỏi, ông đứng sang một bên. Ngồi bên này, Đức Phật nói với ông Potaliya:
-     Có nhiều chỗ trống quanh đây, này ông chủ hộ, ông có thể ngồi xuống nếu muốn.
Nghe Đức Phật nói như thế, chủ hộ Potaliya thầm nghĩ: “Đạo sĩ Gotamagọi ta là ‘ông chủ hộ’”. Ông bực tức, không vui nên lặng thinh. Đức Thế Tôn lại nói lần nữa:
-     Có nhiều chỗ trống quanh đây, này ông chủ hộ, ông có thể ngồi xuống nếu muốn.
Ông chủ hộ Potaliya thầm nghĩ: “Đạo sĩ Gotamagọi ta là ‘ông chủ hộ’”. Ông bực tức, không vui nhưng lặng thinh. Khi Đức Thế Tôn mời ông ngồi xuống lần thứ ba, Potaliya nghĩ thầm: “Đạo sĩ Gotamagọi ta là ‘ông chủ hộ’”. Bực tức, không vui,ông nói với Đức Phật như sau:
-     Này đạo sĩ Gotama, ông không nên gọi tôi là “ông chủ hộ”như vậy.
-     Này ông chủ hộ, nhưng ông có hình tướng, dáng mạo và phong cách của một người chủ hộ.
-     Này đạo sĩ Gotama, tôi đã bỏ nghề và cắt đứtchuyệnđời.
-     Vì sao ông lại nói rằng ông đã bỏ nghề và cắt đứt chuyện đời?
-     Này đạo sĩ Gotama, những tài sản mà tôi có được trong đời, dù là tiền của, lúa thóc hay bạc vàng, tôi đã để cho các con tôi thừa hưởng. Tôi chẳng khuyên chúng phải làm gìhay quở trách chúng việc gì. Hiện tại, tôi chỉ sống nhờ vào thức ăn và quần áo (che thân). Tôi đã từ bỏ nghề nghiệp và cắt đứt chuyện đời như thế.
-     Này ông chủ hộ, việc cắt đứt chuyện đời của ông thật khác với việc cắt đứt chuyện đời của những vị Thánh đệ tử.
-     Vậy thưa Ngài, những vị Thánh đệ tử cắt đứt chuyện đời ra sao?  Nếu Ngài có thể nói cho tôi biết các vị ấy cắt đứt chuyện đời ra sao thì tốt quá![7]
-     Vậy ông hãy cẩn thận lắng nghe. Ta bắt đầu giảng.
-     Vâng, thưa Ngài.
-     Này ông chủ hộ, có tám pháp giúp các vị Thánh đệ tử từ bỏ chuyện đời, cắt đứt chuyện đời. Tám pháp ấy là gì?
1.   Nương vào pháp không giết hại chúng sinh, việc giết hại chúng sinh (ātipāta) cần được từ bỏ.
2.   Nương vào pháp không lấy của không cho, việc cướp bóc, lấy của không cho (adinnādāna) cần được từ bỏ.
3.   Nương vào pháp nói lời chân thật, lời gian dối (musāvāda) cần được từ bỏ.
4.   Nương vào pháp không nói lời vu khống, lời vu khống (pisunāvācā) cần được từ bỏ.
5.   Nương vào pháp xa rời tham ái, tham ái (lobha) cần được từ bỏ.[8]
6.   Nương vào pháp không làm điều sân hận đáng chê trách, sân hận đáng chê trách (nindārosa) cần được từ bỏ.[9]
7.   Nương vào pháp không buồn phiền, buồn phiền (kodhūpāyāsa) cần được từ bỏ.
8.   Nương vào pháp không ngã mạn tự cao, ngã mạn tự cao quá mức (atimāna)cần được từ bỏ.
 
-     Này ông chủ hộ, ta vừa tóm lược tám pháp giúp các vị Thánh đệ tử từ bỏ, cắt đứt chuyện đời như thế.
-     Xin Ngài từ bi giải thích cặn kẽ cho tôi biết tám pháp giúp các vị Thánh đệ tử hoàn toàn buông bỏ chuyện thế gian.
-     Vậy ông hãy cẩn thận lắng nghe. Ta bắt đầu giảng.
-     Vâng, thưa Ngài.
Và rồi, Đức Phật giảng như sau:
1. Nương vào pháp không giết hại chúng sinh, việc giết hạichúng sinh cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại[10] (trong tâm) dẫn đến hành động sát sinh. Khi phạm tội sát sinh, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì sát sinh, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Sát sinh tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại (sayojanā). Do sát sinh mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không sát sinh, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không giết hại chúng sinh, việc giết hại chúng sinh cần được từ bỏ”.
2. Nương vào pháp không lấy của không cho, việc cướp bóc, lấy của không cho cần được từ bỏ.Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) dẫn đến hành động ăn cắp. Khi ăn cắp, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì trộm cắp, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Ăn cắp tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do ăn cắp mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không ăn cắp, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không lấy của không cho, việc cướp bóc, lấy của không cho cần được từ bỏ”.
3. Nương vào pháp nói lời chân thật, lời gian dối (musāvāda) cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) dẫn đến việc nói dối. Khi nói dối, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì nói dối, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Nói dối tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do nói dối mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không nói dối, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp nói lời chân thật, lời gian dối cần được từ bỏ”.
4.  Nương vào pháp không nói lời vu khống, lời vu khống (pisunāvācā) cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) dẫn đến việc vu khống. Khi vu khống, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì vu khống người, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Vu khống tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do vu khống mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không vu khống, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không nói lời vu khống, lời vu khống cần được từ bỏ”.
5.  Nương vào pháp xa rời tham ái, tham ái cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) dẫn đến tham ái. Khi tham ái, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì tham ái, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Tham ái tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do tham ái mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không tham ái, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp xa rời tham ái, tham ái cần được từ bỏ”.
6.  Nương vào pháp không làm điều sân hận đáng chê trách (vạch lá tìm sâu kiếm lỗi của người), sân hận đáng chê trách cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) làm phát sinh sân hận đáng chê trách. Làm điều sân hận đáng chê trách, ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì (làm điều) sân hận đáng chê trách, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Sân hận đáng chê trách tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do sân hận đáng chê trách mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không (làm điều) sân hận đáng chê trách, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không làm điều sân hận đáng chê trách, sân hận đáng chê trách cần được từ bỏ”.
7.  Nương vào pháp không buồn phiền, buồn phiền cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) làm phát sinh buồn phiền. Tạo ra buồn phiền (trong tâm), ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì gây ra buồn phiền (trong tâm), ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Buồn phiền tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do buồn phiền mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không buồn phiền, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không buồn phiền, buồn phiền cần được từ bỏ”.
8.  Nương vào pháp không ngã mạn tự cao, ngã mạn tự cao quá mức cần được từ bỏ. Vì sao lại nói như vậy?
Này ông chủ hộ, trong thế giới này, các vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: Ta tu tập để loại trừ và nhổ tận gốc những chướng ngại (trong tâm) làm phát sinh ngã mạn tự cao. Vì có ngã mạn tự cao (trong tâm), ta sẽ chê trách chính mình. Và khi hay biết (điều này), các bậc trí cũng sẽ chê trách ta. Hơn nữa, vì ngã mạn tự cao, ta sẽ phải tái sinh vào khổ cảnh khi chết đi, khi thân này hư hoại. Ngã mạn tự cao tự nó là lậu hoặc, là chướng ngại. Do ngã mạn tự cao mà tệ hại, phiền phức, lo lắng sinh khởi. Với người không ngã mạn tự cao, tệ hại, phiền phức, lo lắng sẽ không sinh khởi. Vì lẽ đó nên nói: “Nương vào pháp không ngã mạn tự cao, ngã mạn tự cao cần được từ bỏ”.
Này ông chủ hộ, ta vừa giảng giải chi tiết tám pháp giúp các vị Thánh đệ tử từ bỏ, cắt đứt chuyện đời. Nhưng tám pháp này vẫn chưa giúp các vị Thánh đệ tử cắt đứt chuyện đời một cách trọn vẹn và rốt ráo được.
-     Bằng cách nào các vị này có thể cắt đứt chuyện đời một cách trọn vẹn và rốt ráo? Xin Ngài từ bi giải thích cặn kẽ cho tôi.
-     Vậy ông hãy cẩn thận lắng nghe. Ta bắt đầu giảng.
-     Vâng, thưa Ngài.
Và rồi, Đức Phật giảng như sau:
-     Này ông chủ hộ, giả sử có con chó đang đói lả đi ngang qua lò mổ. Và nơi đó, người đồ tể điêu luyện quăng cho nó những khúc xương đã lóc hết thịt và chẳng còn dính chút máu[11]. Theo ông, con chó liếm láp và gặm ngấu nghiến khúc xương này có thể hết đói chăng?
-     Dạ thưa không.
-     Vì sao?
-     Vì khúc xương đã lóc hết thịt và chẳng còn dính chút máu.Gặm khúc xương này, con chó chỉ mệt lảchứ chẳng được gì.
-     Tương tự như thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví hạnh phúc trần gian[12] như khúc xương, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”.Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác, từ đó phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.[13]
-     Này ông chủ hộ, giả sử có con kên kên, diều hâu hay chim ưng gắp được miếng thịt và bay đi. Những con kên kên, diều hâu và chim ưng khác sẽ lập tức bay theo mổ nó, giành lấy miếng mồi. Chuyện gì sẽ xảy ranếu con kên kên này không kịp thời buông miếng thịtngậm trong mỏ? Nó có bị hành hạ đau đớn, thậm chí mất cả tính mạng hay không?
-     Dạ thưa có.
-     Tương tự như thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như miếng thịt, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác, từ đó phát triển loại tâm xả an
trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
-     Này ông chủ hộ, giả sử có người cầm ngọn đuốc cỏ đi ngược chiều gió. Nếu không lập tức buông ngọn đuốc, thì người này có bị phỏng, bị đau đớn vì phỏng hoặc chết vì phỏng không?
-     Dạ thưa có.
-     Tương tự như thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như ngọn đuốc cỏ, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác, từ đó phát triển loại tâmxả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
-     Này ông chủ hộ, giả sử có một hầm than đỏ rực, không có lửa hay khói, sâu hơn chiều cao của một người. Và có một người tham sống sợ chết, một người ham thích những thú vui trong đời và không thích đau khổ đi ngang qua. Nếu hai người đàn ông lực lưỡng nào đó tóm lấy người này và lôi đến gần hầm than rực đỏ này, thì người này có vùng vẫy, chống cự hay không?
-     Dạ thưa có.
-     Vì sao vậy?
-     Vì người này nghĩ rằng: “Rơi vào lò than rực đỏ này, ta sẽ chết hay bị phỏng gầnchết”.
-     Tương tựthế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như hầm than đỏ rực, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”.Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác và phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
-     Này ông chủ hộ, giả sử có người nằm mơ thấy toàn cảnh đẹp: công viên nên thơ, khu rừng quyến rũ, bãi đất trải dài và những cái hồ tuyệt đẹp. Khi tỉnh giấc, người này chẳng tìm thấy những cảnh đẹp ấy ở nơi đâu. Tương tự thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như giấc mơ, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người ấytừ bỏ loại tâm xả tản mác và phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
-     Này ông chủ hộ, giả sử có người mượn xe đời mới hay đồ trang sức, bông tai... để chưng diện và đi vào chốn đông người. Thấy thế, mọi người sẽ nói rằng: “Người giàu có sống đời sang trọng, xa hoa thật chẳng sai”. Nếu những người chủ của những vật dụng này chợt thấy người này và đòi lại hết những của cải của họ. Theo ông, người này có nên bực tức, giận dữ hay không?
-     Dạ thưa không.
-     Vì sao?
-   Vì họ chỉ lấy lại những tài sản của họ cho mượn.
-     Tương tự thế, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như đồ vay mượn, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác và phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung, tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
Này ông chủ hộ, giả sử có một khu rừng chẳng xa làng mạc và phố thị bao nhiêu. Nơi đó, có một cây ăn trái trĩu quả nhưng chẳng có trái nào rơi rụng xuống đất. Một người đàn ông đi vào rừng tìm kiếm trái chín. Thấy cây ăn trái trĩu quả, người này nghĩ rằng: “Trong rừng, (chỉ có) cây này có nhiều trái, nhưng chẳng có trái nào rơi rụng xuống đất. Tại sao ta không trèo lên cây ăn cho thỏa thích và bỏ đầy túi quần, túi áo mang về?”.
Nghĩ vậy, người này trèo lên cây ăn thỏa thích và hái cho vào túi quần, túi áo để mang về.Rồi một người đàn ông khác đem cái cưa vào rừng tìm kiếm trái chín. Thấy cây ăn trái trĩu quả, người này nghĩ rằng: “Trong rừng, (chỉ có) cây này có nhiều trái, nhưng chẳng có trái nào rơi rụng xuống đất, mà ta lại chẳng biết trèo. Tại sao ta không cưa cây ăn cho thỏa thích và bỏ đầy túi quần túi áo đem về?”.Nghĩ thế, người này cưa cây.Nếu mải mê ăn trái trên cây và không kịp leo xuống, người ở trên cây có thể bị gãy tay, gãy chân hoặc gãy xương hoặc thương tích nơi thân khi cây bị cưa ngã. Nếu vậy, người này có thể chết hoặc đau đớn như người sắp chết hay không?
-     Dạ thưa có.
-     Tương tự, những vị Thánh đệ tử quán tưởng rằng: “Đức Thế Tôn ví dục lạc trần gian như cái cây trĩu quả, đầy dẫy khổ đau, phiền muộn và chứa đựng quá nhiều nguy hiểm”. Với trí tuệ thấy rõ điều này, người này từ bỏ loại tâm xả tản mác,và phát triển loại tâm xả an trụ, tập trung. Có được loại tâm xả an trụ tập trung,[14] tham ái nơi dục lạc trần gian hoàn toàn chấm dứt, không còn dấu vết.
Này ông chủ hộ, khi vị Thánh đệ tử vẫn duy trì được loại chánh niệm tối cao và trạng thái tâm xả hoàn toàn thanh tịnh trong sạch, vị này sẽ có Túc Mạng Thông có thể nhìn thấy những kiếp quá khứ của mình (pubbe-nivāsanussati): một kiếp, hai kiếp... năm kiếp ...10 kiếp... 50 kiếp...100 kiếp... 1.000 kiếp... 100,000 kiếp... trong nhiều đại kiếp thế giới hình thành, trong nhiều đại kiếp thế giới phát triển, trong nhiều đại kiếp thế giới hình thành và phát triển với những chi tiết cụ thể: “Tại đó, tôi có tên này, thuộc đẳng cấp này, diện mạo như thế này, ăn thức ăn này, kinh nghiệm những đau khổ và hạnh phúc này và rồi chết đi. Sau khi chết đi, tôi tái sinh nơi đó. Tại đó, tôi có tên này, thuộc đẳng cấp này, diện mạo như thế này, ăn thức ăn này, kinh nghiệm những đau khổ và hạnh phúc này và rồi chết đi. Và sau khi chết đi, tôi tái sinh nơi này”.
Này ông, khi những vị Thánh đệ tử đạt đến trạng thái tâm xả hoàn toàn trong sạch, các vị này có khả năng nhìn thấy những kiếp quá khứ của mình chi tiết như thế.
Này ông chủ hộ, khi một vị Thánh đệ tử vẫn duy trì được loại chánh niệm tối cao và trạng thái tâm xả hoàn toàn thanh tịnh trong sạch, các vị này sẽ có Thiên Nhãn Thông (dibbacakkhu) thấy rõ chúng sinh sau khi chết đi sẽ tái sinh về đâu, là người cao sang hay thấp hèn, đẹp hay xấu, may mắn hay bất hạnh tùy theo nghiệp mà họ đã tạo.Vị này thấy rằng có những chúng sinh tạo nhiều ác nghiệp qua thân khẩu ý, chê bai những bậc cao thượng, chấp giữ tà kiến và tạo nhiều ác nghiệp do tin vào tà kiến sai lầm. Khi chết đi, khi thân hoại mạng chung, những chúng sinh này tái sinh vào cảnh giới thấp kém, vào cõi xấu, vào bốn đường ác đạo, vào địa ngục. Vị này cũng thấy rằng có những chúng sinh tạo nhiều thiện nghiệp qua thân khẩu ý, không chê bai những bậc cao thượng, có được chánh kiến và tạo nhiều thiện nghiệp nhờ có chánh kiến. Khi chết đi, khi thân hoại mạng chung, những chúng sinh này tái sinh vào cõi hữu phúc, vào cõi chư thiên.
Nhờ vào Thiên Nhãn Thông thanh tịnh trong sạch và siêu phàm, một vị Thánh đệ tử thấy rõ chúng sinh chết đi và tái sinh nơi đâu, cao sang hay thấp hèn, đẹp hay xấu, may mắn hay bất hạnh tùy theo nghiệp mà họ đã tạo như thế.
Và rồi với loại chánh niệm tối cao và trạng thái tâm xả hoàn toàn thanh tịnh, một vị Thánh đệ tửchứng đắc Lậu Tận Thông (āsavakkhaya ñāa) hay biết qua kinh nghiệm thực chứng rằng tâm này đã đạt đến giải thoát và an trú trong giải thoát. Một loại giải thoát phát sinh từ trí tuệ khi mọi lậu hoặc, ô nhiễm đã bị diệt tận.
 
Này ông chủ hộ, các vị Thánh đệ tử (của Như Lai) cắt đứt chuyện đời một cách trọn vẹn và rốt ráo như thế. Này ông chủ hộ, ông có cắt đứt chuyện đời như các vị Thánh đệ tử này chăng?
-      Thưa Ngài, con là ai mà có thể cắt đứt chuyện đời một cách trọn vẹn và rốt ráo như thế? Còn lâu lắm con mới được như vậy! Thưa Ngài, trước kia con vẫn nghĩ rằng những đạo sĩ thuộc các tôn giáo khác là dòng thuần chủng, dù họ không phải là dòng thuần chủng. Và con đã dâng cúng cho họ phần thức ăn dành cho dòng thuần chủng, dù họ không phải là dòng thuần chủng. Con đã đặt họ vào địa vị của dòng thuần chủng, dù họ không phải là dòng thuần chủng.
Nhưng với chưtăng dòng thuần chủng, con lại cho rằng các vị không phải là dòng thuần chủng. Và con đã dâng cúng phần thức ăn không dành cho dòng thuần chủng, dù các vị là dòng thuần chủng. Con không đặt các vị vào địa vị của dòng thuần chủng, dù họ là dòng thuần chủng.
Nhưng hôm nay, con biết những đạo sĩ thuộc các tôn giáo khác không là dòng thuần chủng đúng như họ là vậy. Con sẽ dâng cúng phần thức ăn không dành cho dòng thuần chủng vì họ không là dòng thuần chủng. Con không đặt họ vào địa vị của dòng thuần chủng vì họ không là dòng thuần chủng.
Với chưtăng dòng thuần chủng, con hiểu rằng các vị là dòng thuần chủng. Con sẽ dâng cúng phần thức ăn dành cho dòng thuần chủng vì các vị là dòng thuần chủng. Con đặt các vị vào địa vị của dòng thuần chủng, vì họ là dòng thuần chủng.Thưa Đức Thế Tôn, Ngài đã truyền cảm hứng cho con, làm cho con yêu quý các bậc tu hành, có đức tin nơi các bậc tu hành và tôn kính các bậc tu hành.
Tuyệt vời thay, thưa Đức Thế Tôn! Bằng nhiều cách thức khác nhau, Ngài làm sáng tỏ giáo pháp như thể đặt lại món đồ bị úp ngược, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, cầm đèn soi rọi đêm đen để những ai có mắt có thể nhìn thấy rõ. Thưa Đức Thế Tôn, xin cho con được quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tăng. Xin Ngài nhớ đến con như một Phật tử nam quy y với Ngàikể từ hôm nay cho đến trọn đời.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
GIẢI THÍCH:
Trong bài kinh này, chữ “sayojana” được dịch là pháp chướng ngại, nhưng các dịch giả khác có thể dùng một danh từ khác.Vì các danh từ Phật pháp chuyên môn được dùng trong dịch thuật có khác nhau dưới dạng Hán, Nôm, Việt… xưa (chướng ngại, lậu hoặc…) và nay, dưới đây là danh sách những pháp bất thiện hay những ô nhiễm trong tâm bằng tiếng Pāi có phần tiếng Việt để tham khảo.[15] Đức Phật dạy những pháp bất thiện hay những ô nhiễm trong tâm này cần được loại trừ trong quá trình tu tập tiến đến giải thoát.
·  CATTĀROĀSAVĀ: kāmāsavo, bhavāsavo, diṭṭhāsavo, avijjāsavo-bốn Lậu Hoặc gồm tham dục (Dục Lậu), tham muốn tái sinh (Hữu Lậu), tà kiến (Kiến Lậu) và vô minh (Vô Minh Lậu).
·  CATTĀROOGHĀ: kāmogho, bhavogho, diṭṭhogho, avijjogho- bốn Cơn Lụt (Bạo lưu) gồmtham dục, tham muốn tái sinh, tà kiến và vô minh.
 
·  CATTĀROYOGĀ: kāmayogo, bhavayogo, diṭṭhiyogo, avijjāyogo- bốn Trói Buộc gồm tham dục, tham muốn tái sinh, tà kiến và vô minh.
 
·  CATTĀROGANTHĀ: abhijjhā kāyagantho, vyāpādo kāyagantho, sīlabbataparāmāso kāyagantho, idasaccābhiniveso kāyagantho-bốn Thắt Chặt gồm thắt chặt vào tham dục, thắt chặt vào sân hận, thắt chặt vào lễ nghi và nghi thức sai lầm, thắt chặt vào tư kiến cho rằngchỉ có đây là chân lý.
 
·  CATTĀROUPĀDĀNĀ: kāmupādana, diṭṭhupādāna, Sīlabbatupādāna, attavādupādāna - bốn Chấp Thủ gồm chấp thủ tham dục, chấp thủ tà kiến, chấp thủ những lễ nghi và nghi thức sai lầm và chấp thủ vào ngã kiến.
 
·  CHANĪVARAĀNI: kāmacchandabnīvaraa, byāpāda nīvaraa, thīnamiddha nīvaraa, uddhaccakukkucca nīvaraa, vicikicchā nīvaraa, avijjā nīvaraa- SáuTriền Cái (chướng ngại) gồm  tham dục, sân hận, dã dượi hôn trầm, phóng dật lo âu, hoài nghi và vô minh.
 
 
·  SATTĀNUSAYĀ: kāmarāgānusayo, bhavarāgānusayo, paighānusayo, mānānusayo, diṭṭhānusayo, vicikicchānusayo, avijjānusayo- Tùy Miên (ô nhiễm ngủ ngầm) gồmtham ái nơi dục lạc, tham muốn tái sinh, sân hận, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi và vô minh.
·  DASASAYOJANĀNI: kāmarāgasayojana, rūparāgasayojana, arūparāga sayojana, paighasayojana, mānasayojana, diṭṭhisayojana, Sīlabbata parāmāsa sayoja-na, vicikicchāsayojana, uddhaccasayojana, avijjā sayojana, Suttante.Theo tạng Kinh, có mười Chướng Ngại (dây trói buộc): tham muốn dục lạc, tham muốn tái sinh cõi Sắc Giới, tham muốn tái sinh cõi Vô Sắc Giới, sân hận, ngã mạn, tà kiến, chấp thủ những lễ nghi và nghi thức sai lầm, hoài nghi, phóng dật và vô minh.
 
·  APARĀNIDASASAYOJANĀNI: kāmarāgasayojana, bhavarāgasayojana, paigha sayojana, mānasayojana, diṭṭhisayojana, Sīlabbataparāmāsa sayojana, vicikicchāsayojana, issāsayojana, macchariyasayojana, avijjā sayojana, abhidhamme.Theo Vi Diệu Pháp có mườiChướng Ngại (dây trói buộc)với chút khác biệt:  tham muốn dục lạc, tham muốn tái sinh, sân hận, ngã mạn, tà kiến, chấp thủ những lễ nghi và nghi thức sai lầm, hoài nghi, ganh tỵ, keo kiệt và vô minh.
·  DASAKILESĀ: lobho, doso, moho, māno, diṭṭhi, vicikicchā, thīna, uddhacca, ahirika, anottappa- mườiÔ Nhiễm: tham ái, sân hận, si mê, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn trầm, phóng dật, không hổ thẹn (tội lỗi) và không ghê sợ (hậu quả của tội lỗi).
 
Nói về bốn Cơn Lũ Lụt hay bốn Bạo Lưu (oghā), kinh điển định nghĩa: gọi là cơn lụt vì nó nhận chìm chúng sinh trong biển luân hồi, không cho vượt lên giải thoát. Gọi là cơn lụt vì nó ào ạt cuốn trôi những ai đang mê ngủ nên người trí phải luôn tỉnh thức cho đến khi đến bến bờ bên kia (giải thoát), nơi cơn lũ không còn. Người vượt qua cơn lũ lụt đến bờ bên kia gọi là Oghatiṇṇa. Trong bốn Cơn Lũ Lụt này, lụt tà kiến bao gồm 62 tà kiến và lụt vô minh là không biết bốnDiệu Đế.
 
 
 
-      o0o   -
 
 
 
 
 
….
 

[1]Dhaniya” có nghĩa là người nuôi gia súc, nhưng trong bài kinh này, ông là người chủ trại bò.
[2] Ngài chỉ đến đây và tạm nghỉ lại qua đêm, nên không có cốc liêu, không có mái nhà che trên đầu. Không có mái che còn có nghĩa bóng là tâm không còn bị tham, si, ô nhiễm che lấp.
[3] Lửa tham, sân, si, già chết…
[4] Cái bè chính là Bát Chánh Đạo
[5] Đức Phật thường nói đến bốn cơn lũ (oghā), bốn dây ách (yogā), sợi thừng… trong các bài kinh khác. Những danh từ này dùng để chỉ những ô nhiễm trong tâm, hành hạ phàm nhân chưa giải thoát. 
[6] Theo CGiải (MA 3:34), chữ “Aguttarāpa” gồm “aga” có nghĩa là đất nước (janapada) và địa danh “Uttarāpa”. Uttarāpa nằm ở phía bắc sông Mahī. Gọi là phố “Āpaa” vì nơi đây có nhiều cửa tiệm và gian hàng tạp hóa.
[7] Đến đây, thái độ của Potaliya thay đổi. Ông bắt đầu tỏ vẻ tôn kính Đức Phật.
[8]Agiddhi lobha nissāya, giddhi lobho pahātabbo”. Theo CGiải, “giddhi lobha” có nghĩa là tham ái có gốc tham, từ tham mà sinh khởi (gedha bhūto lobho, MA 3:39).
[9]Anindā rosa nissāya, nindāroso pahātabbo” (nindā: đáng trách, rosa: sân hận, giận dữ, bực bội và anindā: không sân).
[10]Sayojana: 10 lậu hoặc (trói buộc, chướng ngại, kiết sử) gồm: thân kiến (sakkāyadiṭṭhi), hoài nghi (vicikicchā), giới cấm thủ (sīlapataparāmāssa), tham ái ngũ trần (kāmarāga), ác ý (paigha), tham muốn tái sinh cõi Sắc Giới (Rūparāga), tham muôn tái sinh cõi Vô Sắc Giới (Arūparāga), ngã mạn (māna), phóng dật (uddhacca), vô minh (avijjā). Nơi đây, sát sinh được gọi là lậu hoặc hay trói buộc (dù không được liệt kê trong danh sách 10 lậu hoặc) vì nó  níu kéo, trói buộc chúng sinh trong sinh tử luân hồi, cản trở sự tiến bộ giải thoát (theo CGiải MA 3:40).
[11] Vì điêu luyện, nên người đồ tể này có thể khéo léo cắt, xẻ, và lóc mảng thịt một cách tài tình, nên không có miếng thịt nào còn dính lại trên khúc xương.
[12] “Hạnh phúc trần gian” hay “ngũ dục” gồm: cảnh đẹp, âm thanh hay, mùithơm, vị ngon, sự xúc chạm qua thân đem đến cảm giác hài lòng.
[13]Uppekkhānānatta: tâm xả liên quan đến ngũ dục trần gian. Upekkhā ekatta: tâm xả liên quan đến nhất tâm (ekaggatā), đến thiền Định. Liên quan đến bài kinh này, trong CGiải của kinh Saāyatana Vibhaga Sutta (Majjhima Nikāya 137), tâm xả của người chủ hộ (gehasitāupekkhā) là loại tâm xả có đặc tính không hay biết (vô minh) phát sinh trong tâm người chưa loại bỏ được ô nhiễm trong tâm, và ô nhiễm này sẽ sinh ra quả tốt xấu trong tương lai. Loại tâm xả này bám chặt vào hạnh phúc trần gian như ruồi bám vào miếng đường vậy. Ngược lại, tâm xả thoát ly, khước từ (nekkhammasitāupekkhā) là loại tâm xả phát sinh do có được tuệ Minh Sát. Hướng tâm đến sự buông bỏ và xa rời tham ái, loại tâm xả này không bám níu vào đối tượng đẹp đẽ, quyến rũ cũng không chê bỏ đối tượng xấu xa.
[14] Theo CGiải, “loại tâm xả an tịnh, tập trung” này chính là tâm xả trong Tứ thiền, trong đó, bốn chi thiền Tầm, Tứ, Hỷ và Lạc đã bị loại trừ, chỉ còn lại chi thiền Nhất Tâm (ekagatta) phát sinh với thọ xả.
[15]Theo Vi Diệu Pháp Toát Yếu Abhidhammattha Sagaha, chươngSamuccaya Sagaha Vibhāgo, có tham khảo bản dịch Việt của dịch giả Phạm Kim Khánh.
♦ CHƯƠNG IV ♦
NGHIỆP (KAMMA) _____________________________________________________________________________________________________ KINH HOÀNG HẬU MALLIKĀ (Mallikādevī Sutta, Aṅguttara Nikāya IV.20 Mahāvaggo.7) Một thuở nọ, Đức Thế Tôn trú tại tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên) của trưởng giả Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) trong thành Sāvatthī (Xá Vệ). Lúc ấy hoàng hậu Mallikā đến gặp Đức Phật, đảnh lễ, ngồi sang một bên và thưa với Đức Phật rằng: - Thưa Đức Thế Tôn, do nhân duyên gì mà nơi đây, một số người nữ có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển, không có nét quyến rũ, nghèo khổ, cơ cực, bần cùng và không có uy tín thế lực? Do nhân duyên gì mà một số người nữ nơi đây có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển, không có nét quyến rũ nhưng lại giàu sang, có nhiều của cải tài sản và có uy thế? Do duyên gì, thưa Đức Thế Tôn, mà một số người nữ nơi đây có nhan sắc kiều diễm, quyến rũ, duyên dáng, với làn da xinh đẹp
116 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
nhưng lại nghèo khổ, cơ cực, bần cùng, và không có uy thế? Và do duyên gì mà một số người nữ nơi đây vừa xinh đẹp mỹ miều, vừa giàu sang có nhiều của cải, lại có uy thế? - Này Mallikā,  Có những người nữ thường dễ nổi giận, cáu kỉnh. Khi bị chỉ trích dù chỉ chút ít, người này không kềm được cơn nóng giận, trở nên giận dữ, thù hằn, bướng bỉnh, tỏ ra bực tức, phẫn nộ, gay gắt. Người này không từng cúng dường đến sa môn, bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc. Người này còn sinh lòng bực tức, ganh tỵ với những ai được lợi lộc, được ngưỡng mộ, được quý trọng, những ai đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường. Nếu đến phút lâm chung mà vẫn không thay đổi tính nết, người này dù tái sinh nơi đâu cũng sẽ có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển, không có nét quyến rũ, nghèo khổ, cơ cực, bần cùng và không có uy thế.  Có những người nữ dễ nổi giận, cáu kỉnh. Tuy nhiên, người này thường cúng dường đến sa môn, bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc. Hơn thế nữa, người này chẳng sinh lòng bực tức, ganh tỵ với những ai được lợi lộc, được ngưỡng mộ, được quý trọng, những ai đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 117
dường. Nếu tâm tính người này vẫn thế không thay đổi cho đến khi lìa đời, thì dù tái sinh nơi đâu, người này cũng sẽ có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển nhưng lại có nhiều của cải và có uy thế.  Nơi đây cũng có những người nữ dù bị chỉ trích cũng hiếm khi nổi giận, cáu kỉnh. Tuy nhiên, người này chẳng hề cúng dường đến sa môn, bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc. Hơn thế nữa, người này thường sinh lòng ganh tỵ với những ai được lợi lộc, được ngưỡng mộ, được quý trọng, những ai đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường. Nếu tâm tính người này vẫn thế không thay đổi cho đến khi lìa đời, thì dù tái sinh nơi đâu, người này cũng sẽ có nhan sắc kiều diễm, dễ thương đầy quyến rũ và làn da xinh đẹp nhưng lại nghèo khổ, ít có tài sản của cải và không có uy thế.  Lại có những người nữ dù bị chỉ trích cũng hiếm khi nổi giận, cáu kỉnh. Người này cũng thường hay dâng cúng đến sa môn, bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc. Và người này chẳng hề khởi tâm ganh tỵ với những ai được lợi lộc, được ngưỡng mộ, được quý trọng, những ai đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường. Nếu gìn giữ đức hạnh được như thế cho đến phút lìa đời thì dù tái sinh nơi đâu,
118 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
người này cũng sẽ luôn có nhan sắc mỹ miều, cuộc sống giàu sang và có uy thế. Này Mallikā, đó là lý do tại sao một số người nữ có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển, không có nét quyến rũ, sống trong nghèo khổ, cơ cực, bần cùng và không có uy thế. Này Mallikā, đó là lý do tại sao một số người nữ có nhan sắc xấu xí, tướng mạo thô thiển nhưng lại có nhiều của cải và có uy thế. Này Mallikā, đó là lý do tại sao một số người nữ có nhan sắc kiều diễm, dễ thương với làn da xinh đẹp và đầy quyến rũ nhưng lại nghèo khổ, ít có tài sản và không có uy thế. Và Mallikā, đó là lý do tại sao một số người nữ vừa xinh đẹp mỹ miều, vừa giàu sang có nhiều của cải lại có uy thế. Khi Đức Thế Tôn vừa dứt lời, hoàng hậu Mallikā thưa rằng: - Thưa Đức Thế Tôn, nếu như trong một kiếp nào trong quá khứ con thường hay nổi giận, cáu kỉnh thì nay con sinh ra với diện mạo xấu xí, thô thiển. Nếu như trong quá khứ, con đã từng cúng dường đến bậc sa môn và bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ,
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 119
chỗ ở và đèn đuốc, thì nay con được giàu sang, có nhiều tài sản. Và nếu như trong quá khứ, con không sinh lòng ganh tỵ với những người đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường thì nay con có được thế lực lớn. Thưa Đức Thế Tôn, trong nội cung này, dưới quyền điều khiển của con có những thiếu nữ hoàng tộc, những thiếu nữ bà la môn và những thiếu nữ thuộc hàng gia chủ. Thưa Đức Thế Tôn, từ nay con sẽ không nổi giận, cáu kỉnh với ai. Dù bị chỉ trích nặng nề, con sẽ không nổi cơn nóng giận, thù hằn, con sẽ không tỏ ra bực tức, phẫn nộ, gay gắt. Con sẽ cúng dường đến hàng sa môn và bà la môn thức ăn, nước uống, vải vóc, xe cộ, tràng hoa, nhang hương, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở và đèn đuốc. Con sẽ không khởi tâm ganh tỵ với những ai được hưởng lợi lộc, được ngưỡng mộ, được quý trọng. Và con cũng sẽ không khởi tâm ganh tỵ với những người đáng được tôn kính, đảnh lễ và cúng dường. Tuyệt vời thay, Đức Thế Tôn! Xin Ngài nhận con làm đệ tử. Con xin quy y với Ngài kể từ nay cho đến trọn đời.
120 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
GIẢI THÍCH: Hoàng hậu Mallikā là cô gái thông minh, xinh đẹp, con của người làm tràng hoa trong thành Sāvatthī. Ở tuổi 16, cô thường cùng bạn bè đến chơi công viên và hái hoai. Một hôm, trên đường đem cơm đến vườn hoa, cô gặp Đức Phật cùng tỳ khưu đang đi khất thực. Nhìn dáng vẻ uy nghi, tĩnh lặng của Đức Phật, cô khởi lòng ngưỡng mộ, dâng cúng trọn phần ăn trưa của mình. Với cử chỉ hân hoan, cô phủ phục nơi chân Ngài bày tỏ lòng kính quý dù chẳng biết Ngài là Đức Phật. Đức Phật nhận thức ăn và mỉm cười. Ngài Ānanda thấy vậy nên muốn biết vì sao Ngài mỉm cười. Đức Phật nói rằng cô gái này sẽ gặt được quả thiện lành (do lòng cung kính và phát tâm dâng cúng mạnh mẽ) trở thành hoàng hậu của xứ Kosala trong ngày hôm nay. Điều này tưởng chừng như không thể xảy ra bởi Mallikā thuộc đẳng cấp thấp (Ấn Độ thời đó rất phân biệt đẳng cấp) và vua Pasenadi của xứ Kosala lại là một trong những vị vua danh tiếng thời đó. Nhưng ngày hôm đó, vua Pasenadi thua cuộc trong trận chiến với vua Ajātasattu của xứ Magadha. Bại trận trở về, vua cưỡi ngựa vào vườn hoa và chợt nghe tiếng hát ngọt ngào của cô gái hái hoa Mallikā. Thỏa thích vì được cúng dường một người có dáng vẻ uy nghi, tĩnh lặng, cô say sưa ca hát và nhảy múa mà chẳng biết nhà vua đang theo dõi mình. Vua xuống ngựa, đến bên cô gái, hỏi cô đã có chồng chưa và vua nói rằng mình vừa bại trận trở về. Mallikā an ủi nhà vua. Ngưỡng mộ vẻ đẹp và bản tính dịu dàng của cô gái, vua quyết định chọn cô làm hoàng hậu. Sau khi đưa cô về nhà bằng ngựa của mình, tối hôm đó, vua cho người đến đón cô về cung làm
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 121
hoàng hậu. Và tin đồn cô gái hái hoa Mallikā trở thành hoàng hậu do thành tâm cúng dường trọn bữa cơm trưa của mình đến Đức Phật lan ra trong dân chúng. Hoàng hậu Mallikā trở thành Phật tử. Với bản tính thông minh, khi quan sát nhân cách và cuộc đời của những người xung quanh, cô đã hỏi Đức Phật những câu hỏi trên. Và cô cố gắng hành theo lời Phật dạy: cư xử tử tế, dịu dàng với cung nữ dưới quyền và mọi người xung quanh, không ganh tỵ với hoàng hậu thứ của vua, thường xuyên dâng bát đến Đức Phật cùng chư tăng và xây dựng Pháp đường để học hỏi Phật pháp. Vì vua Kosala theo đạo bà la môn, một lần gặp ác mộng, ông tin lời các bà la môn lý giải điềm xấu trong mơ và chuẩn bị vô số thú vật để tế thần. Hoàng hậu Mallikā cản ngăn, khuyên vua đến gặp Đức Phật. Đức Phật cho biết vì vua hành thiền và có định tâm mạnh nên thấy trước những việc xấu xảy ra do đức độ suy đồi của hoàng gia. Kể từ đó, vua trở thành Phật tử, hộ trì Phật pháp. Khi vua thỉnh cầu Đức Phật đến dạy giáo lý cho hai hoàng hậu Mallikā và Vasaba Khattiya của mình, Đức Phật cho Đại đức Ānanda đến. Khi học pháp, Mallikā chăm chú lắng nghe, tỏ ra rất sáng dạ và cố gắng hành theo những gì được dạy. Ngược lại, Vasaba Khattiya tỏ ra lơ là, không hiểu rõ giáo pháp và không hưởng được nhiều lợi lạc. Khi Đại đức trình lên Đức Phật, Ngài nhìn nhận rằng lời hay ý đẹp trở nên vô ích với những ai chẳng học hỏi và hành theo, như bông hoa đẹp mà không hương (ám chỉ Vasaba Khattiya). Nhưng lời hay ý đẹp đem đến nhiều lợi lạc cho những ai chuyên tâm học hỏi và hành theo, như bông hoa có hương lẫn sắc vậy (ám chỉ Mallikā).
122 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
KINH TIỂU NGHIỆP (Cūḷa Kamma Vibhaṅga Sutta, Majjhima Nikāya 135) Tôi nghe như vầy… Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngụ tại Jetavana của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) tại thành Sāvatthī. Rồi Subha, con trai ông Todeyya đến đảnh lễ Đức Phật, ngồi sang một bên và hỏi rằng: - Thưa Ngài Gotama, do đâu, vì lý do gì mà có sự khác biệt giữa người và người? Có người chết sớm và có người sống lâu, có người ươn yếu bệnh hoạn, có người lại khỏe mạnh. Có người tướng mạo xấu xí, có người tướng mạo đẹp đẽ, sang trọng. Có người được nể trọng, có người không được như vậy. Có người nghèo, kẻ giàu. Có người sinh ra trong gia đình có địa vị cao sang và có người sinh ra trong gia đình thấp hèn. Do đâu, vì lý do gì mà có sự khác biệt giữa người và người như thế? - Chúng sinh là chủ của nghiệp (mình tạo), là người thừa hưởng nghiệp đã tạo, nghiệp là hạt giống, là quyến thuộc của họ, là nơi nương nhờ của họ. Vì nghiệp lực đã tạo ra mà có sự khác biệt giữa người và người như thế.
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 123
- Con chưa thật sự hiểu những lời dạy vắn tắt của Ngài. Xin Ngài chỉ dạy thêm để con hiểu rõ ràng, chi tiết. - Vậy hãy lắng nghe cho kỹ, Ta sẽ nói. - Vâng thưa Ngài. Đức Phật nói:  Có người sát sinh, giết chóc, làm đổ máu, đấm đá, có  hành vi thô bạo, không chút xót thương chúng sinh. Vì làm những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi khổ, vào địa ngục. Nếu sinh làm người, người này sẽ không sống lâu dù sinh ra nơi đâu. Vậy sát sinh, giết chóc, làm đổ máu, đấm đá, có hành vi thô bạo, không chút xót thương chúng sinh là nguyên nhân đưa đến chết sớm.  Có người tránh sát sinh, tránh giết chóc, không sát sinh, không giết chóc, buông bỏ dao và dây trói, biết thương yêu chúng sinh, có lòng bi mẫn với các chúng sinh. Vì làm những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi phúc, cõi chư thiên. Nếu sinh làm người, người này sẽ sống lâu dù sinh ra nơi đâu. Vì tránh sát sinh, giết chóc, không sát sinh, giết chóc, buông bỏ dao và dây trói, biết thương yêu chúng sinh, có lòng bi mẫn với các chúng sinh, người này sống lâu, trường thọ.
124 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
 Có người dùng tay, dây thừng, gậy gộc hay dao làm tổn thương chúng sinh khác. Làm điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi khổ, vào địa ngục. Nếu sinh làm người, người này sẽ ươn yếu, bệnh hoạn dù sinh ra nơi đâu. Vậy dùng tay, dây thừng, gậy gộc hay dao làm tổn thương chúng sinh khác là nguyên nhân đưa đến bệnh hoạn.  Có người không dùng tay, dây thừng, gậy gộc hay dao làm tổn thương chúng sinh khác. Vì làm điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi phúc, cõi chư thiên. Nếu sinh làm người, người này sẽ có sức khỏe tốt dù sinh ra nơi đâu…
 Có người dễ nổi giận, trước những chuyện dù nhỏ nhặt, người này trở nên giận dữ, có thái độ hằn học, gây hấn, trả đũa, thù hận. Vì làm những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi khổ, vào địa ngục. Nếu sinh làm người, người này sẽ có tướng mạo xấu xí dù sinh ra nơi đâu…
 Có người không nổi giận, không tỏ ra giận dữ, không có thái độ hằn học, gây hấn, trả đũa, thù hận. Vì làm những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi phúc, cõi chư thiên.
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 125
Nếu sinh làm người, người này sẽ có tướng mạo xinh đẹp dù sinh ra nơi đâu…  Có người ganh tỵ với người khác vì người ấy nhận được những lợi lộc, tôn kính, ngưỡng mộ, cúng dường. Vì làm những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi khổ, vào địa ngục. Nếu sinh làm người, người này sẽ không có uy tín dù sinh ra nơi đâu…  Có người không ganh tỵ với người khác vì người ấy nhận được những lợi lộc, tôn kính, ngưỡng mộ, cúng dường. Vì làm những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi phúc, cõi chư thiên. Nếu sinh làm người, người này sẽ có uy tín, được nể trọng dù sinh ra nơi đâu…
 Có người không thực hành bố thí thức ăn, nước uống, vải vóc, giày dép, tràng hoa, nước hoa, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở, đèn đuốc đến chư tăng, bà la môn. Vì làm những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi khổ, vào địa ngục. Nếu sinh làm người, người này sẽ nghèo khó dù sinh ra nơi đâu…
126 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
 Có người thực hành bố thí thức ăn, nước uống, vải vóc, giày dép, tràng hoa, nước hoa, dầu thoa, giường ngủ, chỗ ở, đèn đuốc đến chư tăng, bà la môn. Vì làm những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi phúc, cõi chư thiên. Nếu sinh làm người, người này sẽ giàu có dù sinh ra nơi đâu…
 Có người ngã mạn, bướng bỉnh, không đảnh lễ người đáng được tôn kính đảnh lễ, không đứng dậy (cung kính chào) trước người mình nên đứng dậy (cung kính chào), không nhường chỗ cho người đáng được nhường chỗ, không nhường lối cho người đáng được nhường lối, không tôn kính người đáng được tôn kính, không quý trọng người đáng được quý trọng. Vì làm những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi khổ, vào địa ngục. Nếu làm người, người này sẽ sinh ra trong gia đình thấp hèn dù ở nơi đâu…  Có người không ngã mạn, không bướng bỉnh, đảnh lễ người đáng được tôn kính đãnh lễ, đứng dậy (cung kính chào) trước người mình nên đứng dậy (cung kính chào), hay nhường chỗ cho người đáng được nhường chỗ, nhường lối cho người đáng được nhường lối, tôn kính người đáng được tôn kính, quý trọng người đáng được quý trọng. Vì làm những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 127
cõi phúc, cõi chư thiên. Nếu làm người, người này sẽ sinh ra trong gia đình quyền quý cao sang dù là ở nơi đâu…  Có người đến gặp chư tăng hay bà la môn, không hỏi: “Thưa Ngài, cái gì là nghiệp thiện lành và cái gì là nghiệp ác, điều gì đáng chê trách và điều gì đáng khen, điều gì cần được phát triển vun bồi và điều gì không nên phát triển vun bồi? Cái gì nếu làm sẽ gây ra nguy hại, đau khổ và cái gì đem đến lợi lạc, hạnh phúc?”. Vì không tìm hiểu những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi khổ, vào địa ngục. Nếu sinh làm người, người này sẽ là người si mê, không trí tuệ dù sinh ra nơi đâu…  Có người đến gặp chư tăng hay bà la môn, người này hỏi rằng: “Thưa Ngài, cái gì là nghiệp thiện lành và cái gì là nghiệp ác, điều gì đáng chê trách và điều gì đáng khen, điều gì cần được phát triển vun bồi và điều gì không nên phát triển vun bồi? Cái gì nếu làm sẽ gây ra nguy hại, đau khổ và cái gì đem đến lợi lạc hạnh phúc?”. Vì tìm hiểu những điều như thế, khi thân hoại mạng chung, khi chết, người này sẽ tái sinh vào cõi phúc, cõi chư thiên. Nếu sinh làm người, người này sẽ là người trí tuệ dù ở nơi đâu…
128 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
Thế đó, - vì cắt ngắn mạng sống chúng sinh khác mà người này chết sớm - vì hộ trì, kéo dài mạng sống chúng sinh khác mà người này sống lâu - vì làm người khác tổn thương bệnh tật mà người này ươn yếu bệnh hoạn - vì làm người khác khỏe mạnh mà người này có sức khỏe tốt - vì làm những việc khiến cho mặt mũi xấu xí mà người này có tướng mạo xấu xí - vì làm những việc tạo ra mặt mũi thanh thoát xinh đẹp (không làm những việc khiến cho mặt mũi xấu xí) mà người này có tướng mạo đẹp đẽ - vì tạo nghiệp đưa đến sự mất uy tín nên người này không có uy tín - vì tạo nghiệp đem đến uy tín nên người này có uy tín được nể trọng - vì tạo nghiệp gây ra nghèo khó nên người này nghèo khó - vì tạo nghiệp đưa đến giàu sang thịnh vượng nên người này giàu có thịnh vượng - vì tạo nghiệp dẫn đến tái sinh trong gia đình quyền quý cao sang nên người này tái sinh trong gia đình quyền quý cao sang
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 129
- vì tạo nghiệp dẫn đến si mê khờ khạo nên người này si mê khờ khạo - vì tạo nghiệp đem đến trí tuệ nên người này có trí tuệ. Chúng sinh là chủ của nghiệp (mình tạo), là người thừa hưởng nghiệp đã tạo, nghiệp là hạt giống, là quyến thuộc của họ, là nơi nương nhờ của họ. Vì nghiệp lực đã tạo ra mà có sự khác biệt giữa người và người như thế. Khi Đức Phật nói như thế, Subha con trai ông Todeyya thốt lên: - Tuyệt vời thay Ngài Gotama! Tuyệt vời thay Ngài Gotama! Giáo pháp được Ngài làm sáng tỏ bằng nhiều cách, như thể Ngài dựng lại món bị úp treo ngược, mở ra món đồ bị che dấu, chỉ lối cho kẻ lạc đường, soi đèn rọi sáng trong đêm đen cho những ai có mắt có thể nhìn thấy. Con xin quay về nương tựa Ngài Gotama, con xin quay về nương tựa Pháp, con xin quay về nương tựa Tăng. Xin Ngài nhận con làm Phật tử kể từ nay cho đến trọn đời.
130 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
KINH CẨU ĐẠO SĨ (Kukkuravatika Sutta, Majjhima Nikāya 57) Punna, ta tuyên bố có bốn loại nghiệp (kamma) mà ta thấy và hiểu rõ (nhờ chứng ngộ). Bốn loại nghiệp đó là gì? Nghiệp đen trổ quả đen, nghiệp trắng trổ quả trắng, nghiệp đen và trắng trổ quả đen trắng, và loại nghiệp không đen cũng không trắng không trổ quả đen hay trắng, mà ngược lại có thể tận diệt, chấm dứt nghiệp quả. 1- Thế nào là nghiệp đen trổ quả đen? Có người tạo ác nghiệp qua thân, khẩu, hay ý. Làm như thế, người này tái sinh nơi cảnh khổ. Người này bị những xúc chạm đau đớn hành hạ, kinh nghiệm thọ khổ, đau đớn khôn cùng, như trường hợp chúng sinh nơi địa ngục. Vậy tái sinh nơi cảnh giới nào là do nghiệp chính chúng sinh đó tạo ra. Khi tái sinh rồi, người này kinh nghiệm những xúc chạm (của cảnh giới đó). Do vậy ta nói chúng sinh là người thừa tự của nghiệp. Nghiệp đen trổ quả đen là như thế. 2- Thế nào là nghiệp trắng trổ quả trắng? Có người tạo nghiệp thiện lành qua thân, khẩu, hay ý. Làm như thế, người này tái sinh nơi cảnh giới không có đau khổ. Người này không bị những xúc chạm đau đớn hành hạ, không kinh nghiệm thọ khổ và được hưởng hạnh phúc như trường hợp Phạm thiên Subhakinha. Vậy tái sinh nơi cảnh
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 131
giới nào là do nghiệp chính chúng sinh đó tạo ra. Khi tái sinh rồi, người này kinh nghiệm những xúc chạm (của cảnh giới đó). Do vậy ta nói chúng sinh là người thừa tự của nghiệp. Nghiệp trắng trổ quả trắng là như thế. 3- Thế nào là nghiệp đen trắng trổ quả đen trắng? Có người tạo ác nghiệp và thiện nghiệp qua thân, khẩu, hay ý. Làm như thế, người này tái sinh nơi cảnh giới đau khổ và hữu phúc. Người này có khi bị những xúc chạm đau đớn hành hạ có khi không, có khi kinh nghiệm thọ khổ có khi không, nhận lấy đau khổ và hưởng hạnh phúc như trường hợp loài người, chư thiên và một số chúng sinh ở cảnh giới thấp. Vậy tái sinh nơi cảnh giới nào là do nghiệp chính chúng sinh đó tạo ra. Khi tái sinh rồi, người này kinh nghiệm những xúc chạm (của cảnh giới đó). Do vậy ta nói chúng sinh là người thừa tự của nghiệp. Nghiệp đen trắng trổ quả đen trắng là như thế. 4- Thế nào là nghiệp không đen cũng không trắng không trổ quả đen hay trắng có khả năng đoạn diệt, chấm dứt nghiệp quả? Ngoại trừ những loại nghiệp nói trên, có những tác ý muốn loại trừ nghiệp đen tối (vốn trổ quả đen tối), tác ý muốn loại trừ nghiệp trắng (vốn trổ quả trắng), tác ý muốn loại trừ nghiệp đen trắng (vốn trổ quả đen trắng). Và các tác ý này chính là nghiệp không đen cũng không trắng, sẽ không trổ quả đen hay trắng. Ta tuyên bố có bốn loại nghiệp mà ta thấy và hiểu rõ (nhờ chứng ngộ) như thế.
132 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
ĐẠI KINH VỀ NGHIỆP QUẢ (Mahākammavibhaṅga Sutta, Majjhima Nikāya 136) ... 1. Này Ānanda, trong kiếp này có người giết chết chúng sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc, nói lời thô lỗ cộc cằn, nói lời vô ích, sân hận, có ác ý muốn hại kẻ khác và mang tà kiến. Khi chết, người này tái sinh vào cảnh khổ, vào địa ngục. Tái sinh vào nơi này là vì nghiệp ác mà người này đã tạo trước kia, đã tạo sau đó, hay vì tà kiến (mà người này bám giữ) sinh khởi vào lúc chết. Và vì người này đã giết chết chúng sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc, nói lời thô lỗ cộc cằn, nói lời vô ích, sân hận, có ác ý muốn hại kẻ khác và mang tà kiến (trong đời này), người này sẽ nhận lãnh hậu quả xấu trong kiếp này, hoặc kiếp sau, hoặc kiếp nào đó trong tương lai. 2. Trong kiếp này, có người giết chết chúng sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc, nói lời thô lỗ cộc cằn, nói lời vô ích, sân hận, có ác ý muốn hại kẻ khác và mang tà kiến.
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 133
Khi chết, người này tái sinh vào cõi hữu phúc, vào cõi chư thiên. Được tái sanh vào cõi này có thể vì thiện nghiệp (có khuynh hướng trổ quả thiện lành) mà người này đã làm trước đó, đã làm sau đó, hay vì chánh kiến (mà người này có được) sinh khởi vào lúc chết. Tuy nhiên, do người này đã giết chết chúng sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc, nói lời thô lỗ cộc cằn, nói lời vô ích, sân hận, có ác ý muốn hại kẻ khác và mang tà kiến, người này rồi sẽ nhận lãnh hậu quả xấu trong kiếp này, hoặc kiếp sau, hoặc kiếp nào đó trong tương lai. 3. Trong kiếp này, có người giữ giới không giết chúng sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời đâm thọc, không nói lời thô lỗ cộc cằn, không nói lời vô ích, không sân hận, không có ác ý muốn hại kẻ khác và không mang tà kiến. Khi chết, người này tái sinh vào cõi hữu phúc, vào cõi chư thiên. Được tái sanh vào cõi này có thể vì thiện nghiệp (có khuynh hướng trổ quả thiện lành) mà người này đã làm trước đó, đã làm sau đó, hay vì chánh kiến (mà người này có được) sinh khởi vào lúc chết. Và vì người này đã không giết chúng sinh, không lấy cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời đâm thọc, không nói lời thô lỗ cộc cằn, không nói lời vô ích, không
134 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
sân hận, không có ác ý muốn hại kẻ khác, và không mang tà kiến, người này rồi sẽ nhận lãnh quả thiện lành ngay trong kiếp này, hoặc kiếp sau, hoặc kiếp nào đó trong tương lai. 4. Trong kiếp này, có người giữ giới không giết chúng sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời đâm thọc, không nói lời thô lỗ cộc cằn, không nói lời vô ích, không sân hận, không có ác ý muốn hại kẻ khác và không mang tà kiến. Khi chết, người này tái sinh vào cõi cảnh khổ, vào địa ngục. Tái sinh vào nơi này là vì nghiệp ác mà người này đã tạo trước kia, đã tạo sau đó, hay vì tà kiến (mà người này bám giữ) sinh khởi vào lúc chết. Tuy nhiên, người này đã không giết chúng sinh, không lấy cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời đâm thọc, không nói lời thô lỗ cộc cằn, không nói lời vô ích, không sân hận, không có ác ý muốn hại kẻ khác và không mang tà kiến, người này rồi sẽ nhận lãnh quả thiện lành ngay trong kiếp này, hoặc kiếp sau, hoặc kiếp nào đó trong tương lai. Thế đó, Ānanda, có loại nghiệp không có khả năng trổ quả (thiện lành) không trổ quả (thiện lành). Có loại nghiệp không có khả năng trổ quả (thiện lành) dường như trổ quả
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 135
(thiện lành). Có loại nghiệp có khả năng trổ quả (thiện lành) trổ quả (thiện lành). Có loại nghiệp có khả năng trổ quá (thiện lành) dường như không trổ quả (thiện lành)”.1 GIẢI THÍCH: Bài kinh giảng về những liên hệ phức tạp của nghiệp và quả. Đức Phật dạy phân ra bốn loại người dựa theo nghiệp: - Kẻ ác tái sinh vào địa ngục hay cảnh giới thấp - Kẻ ác tái sinh vào cõi chư thiên - Người tốt tái sinh vào cõi chư thiên - Người tốt tái sinh vào địa ngục hay cảnh giới thấp Ngài cũng chỉ cho chúng ta thấy rằng tà kiến hiểu sai về nghiệp là do chỉ hiểu được một phần sự thật. Tâm sinh diệt vô cùng nhanh cho nên tạo ra vô số nghiệp khác nhau trong cuộc sống. Và vào lúc lâm chung, một trong số những nghiệp mà ta đã tạo sẽ sinh khởi và quyết định hình thức tái sinh của kiếp sau.
1 Theo Chú Giải:
i. Bất thiện nghiệp (không thể trổ quả thiện) mà quả của nó trổ trước quả của những bất thiện nghiệp yếu hơn.
ii. Bất thiện nghiệp (không thể trổ quả thiện), nhưng thiện nghiệp sinh khởi vào giây phút lâm chung chín mùi trước và trổ quả thiện lành.
iii. Thiện nghiệp chín mùi trước khi những thiện nghiệp yếu hơn có thể trổ quả.
iv. Thiện nghiệp (có khả năng trổ quả thiện lành), nhưng bất thiện nghiệp sinh khởi vào giây phút lâm chung chín mùi trước và trổ quả bất thiện, nên thiện nghiệp này không trổ quả được.
136 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
BÀI KINH THỨ NHẤT
VỀ CÁC NGUYÊN NHÂN (Pathama Nidāna Sutta, Aṅguttara Nikāya III.107) Này tỳ khưu, có ba nguyên nhân dẫn đến tạo nghiệp. Ba nguyên nhân đó là gì? Tham ái (lobha) là nhân khiến chúng sinh tạo nghiệp, sân hận (dosa) là nhân khiến chúng sinh tạo nghiệp, và si mê (moha) là nhân khiến chúng sinh tạo nghiệp. Này tỳ khưu, nghiệp do tham ái mà sinh, nghiệp bắt nguồn từ tham ái, nghiệp do tham ái tạo, nghiệp sinh khởi vì tham ái. Tạo nghiệp như thế là xấu xa, là đáng chê trách, nghiệp này gây ra đau khổ. Với tham ái, nghiệp mới lại được tạo ra. Vì tham ái, nghiệp không chấm dứt. Này tỳ khưu, nghiệp sinh khởi do sân hận, nghiệp bắt nguồn từ sân hận, sân hận tạo ra nghiệp, vì sân hận nghiệp sinh khởi. Tạo nghiệp như thế là xấu xa, là đáng chê trách, nghiệp này gây ra đau khổ. Với sân hận, nghiệp mới lại được tạo ra. Vì sân hận, nghiệp không chấm dứt.
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 137
Này tỳ khưu, nghiệp sinh khởi do si mê, nghiệp bắt nguồn từ si mê, si mê tạo ra nghiệp, vì si mê nghiệp sinh khởi. Tạo nghiệp như thế là xấu xa, là đáng chê trách, nghiệp này gây ra đau khổ. Với si mê, nghiệp mới lại được tạo ra. Vì si mê, nghiệp không chấm dứt. Này tỳ khưu, có ba nguyên nhân dẫn đến tạo nghiệp. Ba nguyên nhân đó là gì? Không tham (alobha) là nhân khiến chúng sinh tạo nghiệp, không sân hận (adosa) là nhân khiến chúng sinh tạo nghiệp, và không si mê (amoha) là nhân khiến chúng sinh tạo nghiệp. Này tỳ khưu, nghiệp sinh khởi do không tham, nghiệp bắt nguồn từ vô tham, nghiệp do vô tham tạo, nghiệp sinh khởi vì vô tham. Nghiệp như thế là thiện lành, không thể chê trách, nghiệp này đem đến an vui. Bố thí làm chấm dứt dòng nghiệp, không phát sinh nghiệp mới. Này tỳ khưu, nghiệp sinh khởi do vô sân, nghiệp bắt nguồn từ vô sân, vô sân tạo ra nghiệp, vì vô sân nghiệp sinh khởi. Nghiệp như thế là thiện lành, không thể chê trách, nghiệp này đem đến an vui. Mong mỏi người khác được an vui (vô sân) làm chấm dứt dòng nghiệp, làm nghiệp mới không sinh khởi. Này tỳ khưu, nghiệp sinh khởi từ trí tuệ (vô si), nghiệp bắt nguồn từ trí tuệ, trí tuệ tạo ra nghiệp, vì trí tuệ nghiệp sinh khởi. Nghiệp như thế là thiện lành, không thể chê trách,
138 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
nghiệp này đem đến an vui. Trí tuệ làm chấm dứt dòng nghiệp (không tạo nghiệp mới), làm nghiệp mới không sinh khởi. Này tỳ khưu, đây là ba nguyên nhân dẫn đến tạo nghiệp. GIẢI THÍCH: “Bố thí làm chấm dứt dòng nghiệp, không phát sinh nghiệp mới” và “mong mỏi người khác được an vui (vô sân) làm chấm dứt dòng nghiệp, làm nghiệp mới không sinh khởi” phải được hiểu là: những thiện nghiệp như thế hỗ trợ chúng sinh trên con đường tu tập chứng ngộ Niết Bàn. Nhưng không thể thiếu việc hành thiền Minh Sát, thực hành bốn Niệm Xứ, vì đây là “con đường duy nhất” đưa đến Niết Bàn, chấm dứt dòng nghiệp và chấm dứt tái sinh.
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 139
BÀI KINH THỨ HAI VỀ CÁC NGUYÊN NHÂN (Dutiya Nidāna Sutta, Aṅguttara Nikāya III.108) Này tỳ khưu, có ba nguyên nhân dẫn đến tạo nghiệp (khiến chúng sinh lăn trôi trong luân hồi sinh tử). Ba nguyên nhân đó là gì? Tham muốn (chanda) sinh khởi trước đối tượng đã trôi qua (thuộc về quá khứ) mà đối tượng là nhân phát sinh tham ái (rāga). Tham muốn sinh khởi trước đối tượng chưa xảy ra (thuộc về tương lai) mà đối tượng là nhân phát sinh tham ái. Tham muốn sinh khởi trước đối tượng đang diễn ra (trong hiện tại) mà đối tượng là nhân phát sinh tham ái. Này tỳ khưu, thế nào là: tham muốn sinh khởi trước đối tượng đã trôi qua (thuộc về quá khứ) mà đối tượng là nhân phát sinh tham ái (rāga)? Do luyến ái, bám níu điều gì xảy ra trong quá khứ, mà một người chú tâm, mải mê hồi tưởng đến điều này nhiều lần. Khi chú tâm, mải mê hồi tưởng đến điều này nhiều lần, tham ái sinh khởi. Khi tham ái sinh khởi như thế, tâm người này bị trói chặt, dính chặt vào những đối tượng thuộc về quá khứ. Vậy những đối tượng thuộc về quá khứ là nguyên nhân phát sinh tham ái (trong hiện tại). Này tỳ khưu, ta gọi loại tham ái mãnh liệt
140 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
này là chướng ngại, là sợi dây trói buộc (saṁyojana). Trong trường hợp này, tham ái (đang) phát sinh trước đối tượng thuộc về quá khứ, và đối tượng này là nhân làm phát sinh tham ái trong hiện tại. Này tỳ khưu, thế nào là: tham muốn sinh khởi trước đối tượng chưa xảy ra (thuộc về tương lai), mà đối tượng là nhân phát sinh tham ái? Một người chú tâm, mải mê tưởng tượng đến điều gì đó sẽ xảy ra trong tương lai nhiều lần. Khi chú tâm, mải mê suy tưởng đến điều này nhiều lần, tham ái sinh khởi. Khi tham ái sinh khởi như thế, tâm người này bị trói chặt, dính chặt vào những đối tượng thuộc về tương lai. Vậy những đối tượng thuộc về tương lai là nguyên nhân phát sinh tham ái (trong hiện tại). Này tỳ khưu, ta gọi loại tham ái mãnh liệt này là chướng ngại, là sợi dây trói buộc (saṁyojana). Trong trường hợp này, tham ái (đang) phát sinh trước đối tượng thuộc về tương lai, và đối tượng này là nhân làm phát sinh tham ái trong hiện tại. Này tỳ khưu, thế nào là: tham muốn bắt nguồn từ tham ái (rāga) sinh khởi trước đối tượng đang xảy ra, mà đối tượng này là nhân phát sinh tham ái? Một người chú tâm, mải mê quán sát một đối tượng đang diễn ra. Khi chú tâm, mải mê quan sát đối tượng này nhiều lần, tham ái sinh khởi. Khi tham ái sinh khởi như thế, tâm người này bị trói chặt, dính chặt vào những đối tượng đang xảy ra. Vậy những đối tượng đang diễn ra là nguyên nhân phát sinh
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 141
tham ái (trong hiện tại). Này tỳ khưu, ta gọi loại tham ái mãnh liệt này là chướng ngại, là sợi dây trói buộc (saṁyojana). Trong trường hợp này, tham ái phát sinh trước đối tượng đang xảy ra trong hiện tại, và đối tượng này là nhân làm phát sinh tham ái trong hiện tại. Này tỳ khưu, có ba nguyên nhân dẫn đến tạo nghiệp (khiến chúng sinh thoát khỏi vòng sinh tử). Ba nguyên nhân đó là gì? Này tỳ khưu, đó là: tham muốn (chanda) không sinh khởi trước đối tượng đã trôi qua (thuộc về quá khứ) dù đối tượng này là nhân phát sinh tham ái rāga). Tham muốn không sinh khởi trước đối tượng chưa xảy ra (thuộc về tương lai) dù đối tượng này là nhân phát sinh tham ái. Tham muốn không sinh khởi trước đối tượng đang xảy ra (trong hiện tại) dù đối tượng này là nhân phát sinh tham ái. Này tỳ khưu, làm thế nào tham muốn không sinh khởi trước đối tượng đã trôi qua (thuộc về quá khứ), dù đối tượng này là nhân phát sinh tham ái? Khi hiểu được quả nào sẽ trổ trong tương lai nếu khởi lòng tham trước đối tượng thuộc về quá khứ, và hiểu được quả nào sẽ trổ trong tương lai nếu không khởi lòng tham nơi đối tượng thuộc về quá khứ, người này ngăn ngừa tham ái, ngăn ngừa quả trổ trong tương lai (bằng cách thực hành Minh Sát). Tiếp tục thực hành Minh Sát như thế, người này loại trừ tham ái, tự mình thấy rõ và hiểu rõ tham ái khi có được Thánh đạo tuệ. Bằng cách này, tham muốn không sinh khởi trước đối tượng đã trôi qua (thuộc về quá khứ) dù đối tượng này là nhân phát sinh tham ái.
142 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
Này tỳ khưu, làm thế nào tham muốn không sinh khởi trước đối tượng chưa xảy ra (thuộc về tương lai) dù cho đối tượng là nhân phát sinh tham ái? Khi hiểu được quả nào sẽ trổ trong tương lai nếu khởi lòng tham trước đối tượng thuộc về tương lai, và hiểu được quả nào sẽ trổ trong tương lai nếu không khởi lòng tham nơi đối tượng thuộc về tương lai, người này ngăn ngừa tham ái, ngăn ngừa quả trổ trong tương lai (bằng cách thực hành Minh Sát). Tiếp tục thực hành Minh Sát như thế, người này loại trừ tham ái, tự mình thấy rõ và hiểu rõ tham ái khi có được Thánh đạo tuệ. Bằng cách này, tham muốn không sinh khởi trước đối tượng chưa xảy ra (thuộc về tương lai) dù cho đối tượng là nhân phát sinh tham ái. Này tỳ khưu, làm thế nào tham muốn không sinh khởi trước đối tượng đang xảy ra (trong hiện tại) dù đối tượng này là nhân phát sinh tham ái? Khi hiểu được quả nào sẽ trổ trong tương lai nếu khởi lòng tham trước đối tượng đang xảy ra, và hiểu được quả nào sẽ trổ trong tương lai nếu không khởi lòng tham trước đối tượng đang xảy ra, người này ngăn ngừa tham ái, ngăn ngừa quả trổ trong tương lai (bằng cách thực hành Minh Sát). Tiếp tục thực hành Minh Sát như thế, người này loại trừ tham ái, tự mình thấy rõ và hiểu rõ tham ái khi có được Thánh đạo tuệ. Bằng cách này, tham muốn không sinh khởi trước đối tượng đang xảy ra (trong hiện tại) dù đối tượng này là nhân phát sinh tham ái. Này chư tỳ khưu, đây là ba nguyên nhân dẫn đến chấm dứt tạo nghiệp (khiến chúng sinh thoát khỏi vòng sinh tử).
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 143
BÀI KINH THỨ NHẤT VỀ KIẾP SINH TỒN (Pathama Bhāva Sutta, Aṅguttara Nikāya III.76) Vào lúc đó, Đại đức Ānanda đến bên Đức Phật đảnh lễ, ngồi sang một bên và hỏi rằng: - Thưa Ngài, kiếp sống (bhava) được nói đến, nhưng vì lẽ gì mà ta gọi là kiếp sống (bhava)? - Này Ānanda, nếu không tạo nghiệp (kamma) dẫn đến tái sinh nơi cõi Dục giới, thì có kiếp sống ở cõi Dục giới không? - Dạ thưa Ngài, không thể có. - Vì thế, Ānanda, nghiệp là thửa ruộng, tâm thức là hạt giống và tham ái là nước. Vì bị vô minh che lấp và tham ái trói buộc mà tâm thức sinh khởi2 ở cõi hạ giới. Từ đó, kiếp sống mới (punabbhava) lại bắt đầu.
2 Đây là tâm thức tái sinh, bắt đầu cuộc sống mới. Nếu là tâm tái sinh Dục giới, cuộc sống mới ở cõi Dục giới (hay hạ giới) sẽ bắt đầu. Nếu là tâm tái sinh Sắc giới, cuộc sống mới ở cõi Sắc giới (trung giới) sẽ
144 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
- Này Ānanda, nếu không tạo nghiệp (kamma) dẫn đến tái sinh nơi cõi Sắc giới thì có kiếp sống ở cõi Sắc giới không? - Dạ thưa Ngài, không thể có. - Vì thế, Ānanda, nghiệp là thửa ruộng, tâm thức là hạt giống và tham ái là nước. Vì bị vô minh che lấp và tham ái trói buộc mà tâm thức sinh khởi ở cõi trung giới. Từ đó, kiếp sống mới lại bắt đầu. Này Ānanda, nếu không tạo nghiệp (kamma) dẫn đến tái sinh nơi cõi Vô Sắc giới, thì có kiếp sống ở cõi Vô Sắc giới không? - Dạ thưa Ngài, không thể có. - Vì thế, Ānanda, nghiệp là thửa ruộng, tâm thức là hạt giống và tham ái là nước. Vì bị vô minh che lấp và tham ái trói buộc mà tâm thức sinh khởi ở cõi thượng giới. Từ đó, kiếp sống mới lại bắt đầu. Này Ānanda, kiếp sống (bhava) phải được hiểu như vậy.
bắt đầu. Nếu là tâm tái sinh Vô Sắc giới, cuộc sống mới ở cõi Vô Sắc giới (thượng giới) sẽ bắt đầu.
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 145
GIẢI THÍCH:
1. Có hai loại bhava: upapatti bhava (tái sinh) và kamma bhava (tạo nghiệp trong hiện tại). Theo lời Đức Phật giảng trong kinh này: không tạo nghiệp sẽ không có tái sinh. Vì tạo nghiệp (kamma) nên có tái sinh (bhava) vào cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Từ đó, kiếp sống mới (puna bhava) bắt đầu: kamma bhava  upapatti bhava  puna bhava. 2. Dục giới gồm 11 cõi từ thấp đến cao: địa ngục, a tu la, ngạ quỷ, súc sinh (thú vật), loài người và sáu cõi chư thiên gồm: Tứ Đại Thiên Vương, Tam Thập Tam, Dạ Ma, Đấu Xuất Đà, Hoá Lạc và Tha Hóa Tự Tại. 3. Nhờ thiền Định và chứng đắc các tầng thiền mà một người tái sinh cõi Sắc giới hay Vô Sắc giới. Chứng đắc các tầng thiền Sắc giới sẽ dẫn đến tái sinh cõi Sắc giới, trong khi chứng đắc các tầng thiền Vô Sắc giới sẽ dẫn đến tái sinh cõi Vô Sắc giới. 4. Về phương diện phước báu thì chúng sinh ở cõi Dục giới hưởng hạnh phúc thấp hơn nhiều so với chúng sinh cõi Sắc giới giới hay Vô Sắc giới, nên cõi Dục giới còn gọi là cõi hạ giới. Nhưng về phương diện tu tập giải thoát, cõi người được các vị Bồ Tát chọn tái sinh, vì nơi đây có cả đau khổ lẫn hạnh phúc. Vì kinh nghiệm đau khổ, con người mới ra sức vun bồi ba la mật và hành thiền Minh Sát để sớm thoát khỏi luân hồi sinh tử.
146 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
BÀI KINH THỨ HAI VỀ KIẾP SINH TỒN (Dutiya Bhāva Sutta, Aṅguttara Nikāya III. 77) Vào lúc đó, Đại đức Ānanda đến bên Đức Phật đảnh lễ, ngồi sang một bên và hỏi Đức Thế Tôn: - Thưa Ngài, kiếp sống (bhava) được nói đến, nhưng vì lẽ gì mà ta gọi là kiếp sống? - Này Ānanda, nếu không tạo nghiệp dẫn đến tái sinh nơi cõi Dục giới, thì có kiếp sống ở cõi Dục giới (kāma bhava) không? - Dạ thưa Ngài, không thể có. - Vì thế, Ānanda, nghiệp là thửa ruộng, tâm thức là hạt giống, và tham ái là nước. Vì bị vô minh che lấp và tham ái trói buộc, mà tác ý (cetanā) và ước muốn (patthanā) sinh khởi ở cõi hạ giới. Từ đó, kiếp sống mới lại bắt đầu. Này Ānanda, nếu không tạo nghiệp dẫn đến tái sinh nơi cõi Sắc giới, thì có kiếp sống ở cõi Sắc giới không? - Dạ thưa Ngài, không thể có.
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 147
- Vì thế, Ānanda, nghiệp là thửa ruộng, tâm thức là hạt giống, và tham ái là nước. Vì bị vô minh che lấp và tham ái trói buộc, mà tác ý và ước muốn sinh khởi ở cõi trung giới. Từ đó, kiếp sống mới lại bắt đầu. Này Ānanda, nếu không tạo nghiệp dẫn đến tái sinh nơi cõi Vô Sắc giới, thì có kiếp sống ở cõi Vô Sắc giới không? - Dạ thưa Ngài, không thể có. - Vì thế, Ānanda, nghiệp là thửa ruộng, tâm thức là hạt giống, và tham ái là nước. Vì bị vô minh che lấp và tham ái trói buộc, mà có tác ý và ước muốn sinh khởi ở cõi thượng giới. Từ đó, kiếp sống mới lại bắt đầu. Này Ānanda, kiếp sống phải được hiểu như vậy. GIẢI THÍCH: 1. Tác ý muốn làm gì khiến ta làm điều đó. Vậy tác ý chính là nghiệp. Trong bài kinh Nibbedhika sutta (Aṅguttara Nikāya VI.63), Đức Phật dạy: “Tác ý là nghiệp. Vì tác ý mà nghiệp được tạo qua thân, khẩu và ý”. Vậy luôn ao ước được tái sinh vào cõi hạ giới (làm người hay chư thiên) chính là thường nghiệp được tạo qua ý. Nghiệp này (tác ý và ước muốn) dẫn đến tái sinh ở cõi hạ giới. Dĩ nhiên là ta không thể ao ước suông mà
148 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
được. Vì có tác ý và ao ước như thế, con người cố làm nhiều điều thiện lành để được tái sinh làm người hay chư thiên. 2. Luật Nhân Quả, Nghiệp Báo (kamma) Nhân nào quả đó: làm tốt sẽ nhận lấy quả tốt, làm điều xấu ác sẽ nhận lấy quả xấu. Như hạt chanh sẽ nẩy mầm thành cây chanh chứ không thể thành cây dừa, cây cam được. NHÂN (quá khứ) TRỔ QUẢ (hiện tại & tương lai) Kiếp quá khứ Kiếp hiện tại (+ kiếp tương lai) Thời gian vừa qua (thiếu thời, năm trước, tháng trước, ngày hôm qua) Giai đoạn hiện tại (+ tương lai) Sát na trước Sát na sau (+ tương lai) Tác ý yếu Tác ý mạnh Nghiệp quả nhẹ Nghiệp quả nặng Vậy để có được hạnh phúc an vui trong đời này và đời sau, ta không thể khấn cầu mà có. Khi làm nhiều điều tốt và thiện lành, quả hạnh phúc, an vui sẽ tự động đến. Quan sát những gì mình nhận lãnh trong hiện tại, ta có thể suy
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 149
đoán những gì mình đã làm trong quá khứ. Và quan sát những gì mình đang làm trong hiện tại, ta có thể suy đoán những gì có thể xảy đến với mình trong tương lai. 3. Ngũ Nghịch Tội Năm trọng tội khiến người tạo nghiệp phải đọa địa ngục A Tỳ sau khi chết gồm có: 1. Giết cha, 2. Giết mẹ, 3. Giết Vị A La Hán, 4. Làm chảy máu Đức Phật, 5. Chia rẽ Tăng đoàn. Tỳ khưu Devadatta bị đọa địa ngục A Tỳ trong 100.000 đại kiếp trái đất vì làm Phật chảy máu và chia rẽ Tăng đoàn. Sau đó, nhờ thiện tâm trong sạch quy y Phật trước lúc lâm chung, cùng với thiện nghiệp vun bồi ba la mật trong hai a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp thế giới trong quá khứ, sẽ sinh làm người và đắc đạo trở thành Phật Độc Giác (Phật Bích Chi) có tên gọi Aṭṭhissara (Đức Phật Thích Ca tuyên bố như thế). Vì nghe theo lời của tỳ khưu Devadatta, vua Ajātasattu đã giết vua cha Bimbisāra, người đã chứng đắc quả Thánh Tu Đà Hườn. Nghe tin tỳ khưu Devadatta bị đất hút, vua Ajātasattu ăn năn, sám hối. Đức Phật giảng pháp tế độ, nhưng vì ác nghiệp giết cha nên vua không thể chứng đắc Thánh quả Tu Đà Hườn. Với đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, vua Ajātasattu hộ độ 500 vị thánh A La Hán kết tập Tam Tạng và Chú Giải lần thứ nhất trong suốt bảy tháng do Ngài trưởng lão Mahākassapa chủ trì.
150 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
Vì ác nghiệp giết cha, vua phải tái sinh ở địa ngục A Tỳ (Avicī). Nhưng vì thiện nghiệp hộ trì chư Thánh tăng hoàn thành việc kết tập Tam Tạng Kinh Điển, vị này chỉ bị đọa địa ngục Lohakumbhī (đồng sôi) trong 60.000 năm (thay vì đọa địa ngục A Tỳ trong một thời gian rất dài). Sau đó, nhờ tích lũy ba la mật từ vô lượng kiếp trong quá khứ mà được tái sinh làm người và tu tập trở thành Phật Bích Chi có danh hiệu là Vijitāvi. Cả hai người này đều là loại người “tam nhân” có trí tuệ, gặp được Đức Phật và có khả năng đắc đạo quả ngay trong kiếp sống đó. Nhưng vì ô nhiễm trong tâm tác động nên tạo ra ác nghiệp nặng nề, hủy hoại đường tu. Là phàm nhân, ai dám chắc rằng mình không có tà kiến, không tạo ngũ nghịch tội trong hiện tại hay tương lai? Cho nên chúng ta cần ra sức học hỏi chánh pháp, cố gắng vun bồi thiện nghiệp, thân cận bậc trí và hành thiền Minh Sát để làm suy yếu và loại trừ ô nhiễm trong tâm. 4. Chánh Mạng, Tà Mạng Chánh mạng là nuôi mạng chân chánh, kiếm sống bằng nghề chân chánh. Ngược lại, tà mạng là nuôi mạng không chân chánh, kiếm sống bằng nghề không chân chánh.
CHƯƠNG IV. Nghiêp̣ (Kamma) 151
Theo kinh Vaṅijjā Sutta (Aṅgutara Nikāya 5.177): “Này các tỳ khưu, có năm nghề mà người cư sĩ không nên làm. Thế nào là năm? Buôn bán vũ khí, buôn bán người (làm nô lệ hay phục vụ tình dục), buôn bán thịt (nuôi hay mua gia súc để giết thịt hay đem bán), buôn bán chất say (rượu, bia, ma túy…), buôn bán thuốc độc”.3 Theo Luật Tỳ khưu (bốn Thanh Tịnh Giới – Catupārisuddhi sīla, phần Biệt Biệt Giải Thoát Thu Thúc Giới – Pātimokkhasamvara sīla), tỳ khưu nên tránh làm 26 điều được cho là không hợp lẽ, là tà mạng. 26 điều này liên quan đến: - Lấy lòng Phật tử (cho quà, chăm sóc con cái, nhà cửa của họ) - Xem tử vi bói toán, bắt mạch trị bệnh… - Gợi ý cho Phật tử cúng dường mình. - Đạo đức giả, làm cho Phật tử lầm tưởng mình là người đạo hạnh, tri túc, tu tập cao, chứng đắc thần thông, thiền Định hay Đạo quả.
3 Sattha, satta, maṁsa, majja, visa
152 NHỮNG LỜI DẠY CỦ A ĐỨ C PHÂṬ – Quyển Môṭ
Trong quyển Niết Bàn qua Bát Chánh Đạo của Ngài thiền sư Mahasi: “Nếu ai đó không nói dối, nói xấu, nói lời thô lỗ và nói lời vô ích, người này đang thực hành Chánh Ngữ. Nếu ai đó giữ giới không giết hại chúng sinh, không ăn cắp, không phản bội chồng hay vợ mình, người này đang thực hành Chánh Nghiệp. Nếu không phạm bảy điều kể trên, người này đang thực hành Chánh Mạng”. - o0o - ….








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét